
{title}
{publish}
{head}
Dòng sông Ô Lâu như dải lụa biếc xanh vắt ngang giữa tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế (nay là thành phố Huế), tạo nên những làng quê êm đềm gắn liền với đôi bờ sông nước hữu tình. Dựa theo thế đất, thế sông uốn lượn, con người quần tụ dựng xóm dựng làng, tạo ra sự hưng thịnh đời đời của quê hương xứ sở.
Từ buổi khai sơn lập làng cho đến các đời Chúa Nguyễn và sau này là Triều Nguyễn, một số làng lân cận trong vùng thuộc huyện Hải Lăng bao gồm tổng Câu Hoan và tổng An Thơ có tên bắt đầu bằng từ “kẻ”. Người dân trong vùng gọi đến tiếng “kẻ”như chợ Kẻ Diên thuộc xã Hải Thọ (nay là thị trấn Diên Sanh), làng Kẻ Lạng thuộc xã Hải Sơn, làng Kẻ Văn thuộc xã Hải Tân (nay là xã Hải Phong), làng Kẻ Vịnh thuộc xã Hải Hòa (nay là xã Hải Phong).
Sông Ô Lâu chảy qua xứ “4 kẻ”, “7 càng” - Ảnh: VTH
Nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh, nguyên Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Thừa Thiên Huế cho rằng: “Từ “kẻ” là một từ thuần Việt, có nghĩa tương ứng như một làng. Trước hết nó bắt nguồn từ một nghĩa là con người rồi dần chỉ thị là một vùng đất, có thể là một vùng đất rất rộng lớn như là “Kẻ chợ Thăng Long”, “Kẻ Huế” (xứ Huế), “Kẻ Sặt” (Hưng Yên); còn lại là chỉ dấu một làng và đó thường là những làng cổ. Càng đi ra Bắc, từ “kẻ” càng nhiều, vì nó bảo tồn dấu vết cổ trong ngôn từ chỉ làng và càng đi vào Quảng Nam thì nó càng rơi rụng dần”.
Chợ Kẻ Diên là một nơi giao thương buôn bán và trao đổi hàng hóa giữa người dân với nhau trong vùng nên rất sầm uất, bây giờ thuộc thị trấn Diên Sanh. Thị trấn xinh xắn này cùng với các làng xã lân cận ngày xưa được mô tả trong sách Ô Châu cận lục của Dương Văn An là một nơi có hồ sen rất đẹp, hải sản rất nhiều. Theo PGS, TS sử học Nguyễn Thành Nhân (Đại học Huế) thì Kẻ Diên có trước thế kỷ XV.
Nhưng nói đến chợ Kẻ Diên là nói đến bài ca dao “rất Quảng Trị” mà giáo sư Trần Quốc Vượng cho là một trong số những bài ca dao hay nhất miền Trung, đó là bài ca dao “Mười cái trứng”. Bài ca dao đó cho ta thấy tình cảnh sống rất gian khổ của người nông dân Việt Nam ngày xưa. Thời tiết khắc nghiệt của vùng khí hậu Trị Thiên làm cho việc trồng trọt, chăn nuôi rất khó khăn, nhưng con người đã vượt lên những gian khổ ấy để sống. Dù mười cái trứng chỉ còn lại ba cái, và trong ba cái trứng ấy, cái thì con diều tha, cái thì con quạ bắt, cái thì con mặt cắt lôi, nhưng: “Đừng than phận khó ai ơi, còn da lông mọc còn chồi nảy cây”. Bài ca dao ấy đã khắc họa tính cách chịu thương chịu khó, vươn lên vượt qua tất cả mọi gian khổ của con người Quảng Trị.
Xứ Kẻ Vịnh được xem là vựa lúa của Hải Lăng với những cánh đồng bát ngát và những sản vật quen thuộc của vùng quê Quảng Trị. Đó cũng là ân tứ của thiên nhiên đã ban tặng cho vùng quê thấp trũng. Chợ Hải Hòa thường đông vào buổi sáng, hầu hết người dân hai bên mạn sông Ô Lâu từ thượng nguồn về tận Hưng Nhơn giao thương trao đổi hàng hóa từ mờ sáng đến gần trưa mới tan chợ. Ở đây có nguồn cá sông của các vạn chài đến bán nên cá rất tươi, đặc biệt có sắn vùng càng rất ngon được mô tả là đặc sản làng Câu Nhi.
Về với “ xứ 4 kẻ” hôm nay, ẩn tàng sâu hút trong những thôn xóm yên bình dân dã là những tầng sâu văn hoá riêng biệt mà cổ kính, khiêm cung mà tự tin. Một sự tôn nghiêm được toát ra từ nếp ăn ở của con người, từ bản sắc của vùng đất, khiến cho bất cứ ai đến đây lần đầu đều không khỏi ngỡ ngàng. Qua bao đổi thay của thế sự, mảnh đất này vẫn giữ được cốt cách, phong tục từ xa xưa truyền lại.
Làng Văn Qũy tên cổ ngày xưa là xứ Kẻ Văn. Trong văn học cổ Quảng Trị còn lưu lại hai câu đối có hai chữ đầu là chữ văn và chữ quỹ: “Văn chương vạn thế trường tồn, thiên nhật nguyệt địa sơn hà, Á vũ Âu phong nan hối tắc/ Quỹ phạm bất vương bất dịch, quốc quân thần gia phụ tử, Hán hưng Tần diệt giả nan ô” (dịch nghĩa: Văn chương còn tồn tại mãi ngàn đời, đất núi sông năm tháng, gió Âu mưa Á khó phai mờ/ Phép tắc trăm vua không đổi, nước có vua tôi nhà có cha con, đời Hán hưng đời Tần diệt chẳng xấu hổ sao).
Kẻ Văn, Kẻ Vịnh nằm kề bên một làng lớn là Câu Nhi. Làng này từng có những viên chức từ thời Chúa Nguyễn còn lưu dấu lại những phần mộ rất đặc biệt, ngoài cồn mồ của Văn Quỹ. Đó là những phần mộ có dáng hình trái đào, trái phật thủ, dáng hình con rùa để cầu mong vĩnh cửu và sinh sôi nảy nở.
Nhìn lại một số xã mà theo sách Ô Châu cận lục ghi lại như Văn Quỹ,Vĩnh Hưng, Diên Sanh, thì đã có đầy đủ trong sách, riêng xã Hải Sơn có chợ Kẻ Lạng thì không có trong Ô Châu cận lục của Dương Văn An, như vậy làng Lương Điền thuộc xã Hải Sơn, được thành lập từ thế kỷ nào? Theo nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh, làng Lương Điền ban đầu có tên là Lạng Phước, nhưng chữ phước (phúc) đồng âm với tên của Hồ Phi Phúc (thân phụ của Nguyễn Huệ), nên kể từ đời Tây Sơn, chữ phúc không được dùng nữa, mà phải đổi. Tên làng Lạng Phước, Lạng Phúc không được mà nếu gọi là Lạng Điền thì âm không hài hòa nên đã đổi luôn hai từ Lạng Phước thành Lương Điền như ước vọng về một làng trù phú về đồng ruộng.
Về Lương Điền chúng ta sẽ còn được nghe các vị cao niên kể câu chuyện về cây phong lưu được trồng trước đình làng. Theo lời ông Nguyễn Văn Hiếu người làng Lương Điền, ông nội của ông là ông Nguyễn Khư (Thị Khư) làm quan bên Lào, trong một lần về quê đã đem theo hai giống cây về trồng ở đình làng và từ đường dòng họ. Ông gọi là cây phong lưu với ước muốn dân trong làng được an lành, nhàn hạ, no ấm. Trải ngót trăm năm, qua bao bể dâu và biến thiên cuộc sống, giờ đây chỉ còn lại cây phong lưu trồng trước cổng đình làng, với những tán lá xanh mướt, phủ bóng mát cả một khoảng không rộng lớn.
Các vị cao niên trong làng kể cứ đến chiều tối lá cây cụp xuống như ngủ và khi bình minh lên thì lá cây vươn dậy như cuộc sống của con người có nghỉ ngơi, thảnh thơi rồi lại lao động tạo dựng cuộc sống. Vậy nên, cây phong lưu cũng được coi là biểu tượng của may mắn, thành công và thịnh vượng. Nó không chỉ mang lại vẻ đẹp cho không gian sống, mà còn thể hiện thông điệp tích cực và khích lệ người dân trong cuộc sống hằng ngày.
Chợ Kẻ Lạng ở làng Lương Điền họp chợ buổi chiều (còn gọi là chợ hôm Lạng) và sản vật có tiếng là chột nưa còn lưu dấu trong câu ca của dân trong vùng: “nhất thuốc Phù Lai, nhì khoai Tân Trường, ba nưa Kẻ Lạng, bốn sắn càng Câu Nhi”.
Chợ hôm Lạng nay không còn nữa, nhưng vẫn còn đây con đường cái quan và chuyện tình giữa chàng thư sinh xứ Nghệ với cô lái đò trên sông này nảy nở nhân một chuyến chàng “qua sông luỵ đò” để vào kinh ứng thí. Bến đò Ba Bến đó nằm trên trục thiên lý Bắc - Nam của thời Nguyễn và nó đọng lại biết bao chuyện tình, trong đó chuyện tình của một chàng thư sinh và một cô thôn nữ là một nét đẹp văn hóa, cho ta thấy tình cảm của người xưa rất đậm đà, sâu nặng.
Nói đến vùng đất hạ lưu về phía Bắc của dòng Ô Lâu chảy qua địa bàn huyện Hải Lăng là nói đến cảnh sắc và con người mang nét đặc thù riêng nơi miền quê sông nước. Trong đó những xóm nhỏ yên bình giữa cánh đồng bao la được gọi là “càng” luôn có sức cuốn hút đến kỳ lạ. “Càng” là cánh tay nối dài của một làng nên một số càng có tên gọi trùng với tên của một làng trong vùng.
Làng quê Hải Lăng yên bình - Ảnh: VTH
Ví như càng Mỹ Chánh thì có làng Mỹ Chánh của xã Hải Chánh, càng Trung Đơn thì có làng Trung Đơn của xã Hải Thành (nay là xã Hải Định), càng An Thơ thì có làng An Thơ, càng Câu Nhi thì có làng Câu Nhi, thuộc xã Hải Tân (nay là xã Hải Phong). Xã Hải Hòa (nay là xã Hải Phong) có đến 3 càng, ngoài càng An Thơ, còn có càng Hưng Nhơn và càng Hội Điền. Vị trí của mỗi càng thường cách xa làng ít nhất là 5 cây số.
Trong số đó xa nhất là càng Mỹ Chánh cách làng Mỹ Chánh chừng hơn 6 cây số đường chim bay. Càng Cây Da gắn liền với nhà thờ Cây Da của xã Hải Thọ (nay là thị trấn Diên Sanh) nằm soi mình bên dòng Ô Giang, mỗi khi chiều về lại vang vọng tiếng chuông như cầu mong cho nơi đây vẫn giữ mãi nét đẹp hồn hậu, yên bình của một vùng quê thấp trũng.
Về với vùng càng của Hải Lăng, cũng như bao người khách lạ, chúng tôi không khỏi băn khoăn vì sao người xưa lại gọi những xóm nhỏ là “càng” mà không gọi là “làng”?
Có nhiều cách giải thích khác nhau, có người bảo rằng càng ra đời là do truyền thống làm nghề nông. Cách đây mấy trăm năm về trước, những tiền nhân đặt chân lên vùng đất dọc theo dòng Ô Lâu, sau khi chọn thế đất cao về phía Tây để lập làng, dần dần đã tiến về phía Đông để khai khẩn vùng đất bao la vốn nhiều tôm cá, lại thích hợp với cây lúa nước.
Nhưng đây là nơi thường bị ngập sâu vào mùa mưa lũ, việc đi lại khó khăn, mỗi năm chỉ có thể trồng được một vụ lúa xuân hè. Vì vậy, để duy trì sản xuất, mỗi làng đều cử ra một nhóm người để giữ lúa và giữ đất. Về sau những người này đã chọn những gò đất cao để sinh sống lâu dài, từ đó hình thành nên những xóm nhỏ gọi là càng.
Cũng có người cho rằng trong quá trình mở rộng và vươn xa của làng, những xóm nhỏ này tựa như cái càng mọc ra từ thân con cua nên gọi là “càng”. Thật khó để giải thích thấu đáo về tên gọi “càng” như ngày nay, chỉ biết rằng sau mấy trăm năm từ “càng” gần đến “càng” xa trên cánh đồng cò bay thẳng cánh, người dân luôn tự hào gắn bó với quê nhà, nhất là khi cuộc sống ngày mỗi có nhiều đổi thay, tiến bộ.
Đến với vùng càng Hải Lăng hôm nay, có thể nói việc nhà nước đầu tư xây dựng tuyến đê bao chống lũ kết hợp làm đường giao thông đã thực sự góp phần tạo nên những đổi thay quan trọng cả về đời sống vật chất và tinh thần cho người dân nơi đây. Bởi trước đây, việc đi lại của bà con vẫn còn hết sức khó khăn, kể cả mùa hè cũng như mùa đông.
Nhưng hiện nay người dân không chỉ đi lại thuận tiện hơn, mà xe ô tô cũng dễ dàng vận chuyển vật liệu xây dựng, vật tư nông nghiệp về tận các càng, đồng thời việc bán nông sản của bà con cũng thuận tiện hơn. Bên cạnh đó người dân ở các càng đều đã có điện lưới phục vụ sinh hoạt và sản xuất.
Cuộc sống ngày càng đổi thay, nhiều người trẻ ở càng đã chọn những vùng quê mới để sinh cơ lập nghiệp. Nhưng với ai luôn nghĩ về nguồn cội, thích sống hoà mình cùng thiên nhiên thì cuộc sống ở càng vẫn hạnh phúc và mang ý nghĩa về tâm linh và nguồn cội.
Nếu nói rằng qua bao thăng trầm của lịch sử, làng là nơi bảo tồn tinh túy, là hồn cốt của văn hóa dân tộc để vận vào những Kẻ Diên, Kẻ Lạng, Kẻ Vịnh, Kẻ Văn; những càng Cây Da, Trung Đơn, Hưng Nhơn, Hội Điền, An Thơ, Mỹ Chánh, Câu Nhi ở Hải Lăng thì có thể thấy đây là những làng quê của miền Trung còn bảo tồn được nhiều giá trị văn hóa, người dân nơi đây từ bao đời nay vẫn luôn giữ được nét phong hóa quê nhà để trao truyền cho các thế hệ mai sau.
Võ Thế Hùng
QTO - Có nhiều cách để gọi tên một vùng quê nhưng cứ nghĩ đến Hải Lăng là bất giác tôi liên tưởng đến một miền khát vọng. Khát vọng vươn lên mãnh liệt.
QTO - Nghẹn ngào và hạnh phúc là những cảm xúc khó tả trong giây phút bà Phan Thị Thúy (67 tuổi) và con trai gặp lại người thân ruột thịt của mình ở quê...
QTO - Vài năm trở lại đây, nhiều người trên địa bàn tỉnh Quảng Trị tìm đến thú chơi thủy sinh. Những tưởng, đây là “món” chỉ dành cho những người lớn tuổi,...
QTO - Đến với công nghệ từ một sự lựa chọn, anh Nguyễn Tài Tâm (sinh năm 1990), Giám đốc Công ty TNHH Một thành viên TPT Software, TP. Đông Hà đam mê lúc...
QTO - Sinh ra, lớn lên ở một miền quê nghèo, lại có hoàn cảnh khó khăn nhưng em Nguyễn Tấn Dũng (sinh năm 2007), học sinh Trường THPT Bùi Dục Tài, huyện...
QTO - Thuở còn đi học, đọc “ Thi nhân Việt Nam ” của Hoài Thanh và Hoài Chân, một kiệt tác của phê bình văn học Việt Nam ra đời năm 1941 đã “điểm danh” đầy...
QTO - Có những cung đường, có những khoảnh khắc gặp một lần có thể quên ngay, nhưng cũng có những cung đường đi, đến một lần rồi xa nhưng cả đời không thể...
QTO - Mãi yêu thương, mang ơn nơi chôn nhau cắt rốn của mình, nơi mình lớn lên; mang ơn ba mạ cho con hình hài, cuộc sống; quê hương cho giọng nói, cốt...
QTO - Một mùa xuân cho bao tâm hồn, cho bao cuộc đời từ khát vọng bình yên và hạnh phúc. Bình yên để có hạnh phúc. Hạnh phúc lớn nhất chính là sự bình yên....
QTO - Vượt qua hàng trăm hải lý trong điều kiện sóng to gió lớn, đoàn công tác của Bộ Tư lệnh Hải quân Vùng 3, các đại biểu và phóng viên đã hoàn thành...