
{title}
{publish}
{head}
QTO - Theo thời gian và cuộc sống đổi thay, nhiều nghề và làng nghề truyền thống có nguy cơ mai một dần. Tuy vậy, đâu đó nơi nhiều làng quê vẫn còn có những “nghệ nhân” lớn tuổi luôn đau đáu giữ nghề và miệt mài truyền dạy lại cho thế hệ trẻ nhằm gìn giữ nghề quý của cha ông. Làng nghề nón lá truyền thống Trà Lộc, xã Hải Hưng, huyện Hải Lăng là một trong những làng nghề có sức sống bền bỉ như thế… Từ đôi bàn tay tài hoa, khéo léo của những “nghệ nhân”, những người thợ lành nghề nơi đây, chiếc nón lá thanh tao, mộc mạc của Trà Lộc đã tỏa đi khắp trăm miền, che chở nắng mưa và làm đẹp cho đời. Cũng nhờ nghề truyền thống này mà hàng trăm gia đình nơi đây có việc làm quanh năm với thu nhập ổn định.
Bà Cáp Thị Thai và nhiều phụ nữ ở thôn Trà Lộc, xã Hải Hưng, huyện Hải Lăng quây quần vừa chằm nón vừa trò chuyện vui vẻ - Ảnh: ĐV
Những “nghệ nhân” làng nón
Chị Lê Thị Bé, Tổ trưởng Tổ hợp tác nón lá Trà Lộc vừa dẫn chúng tôi đi thăm một số gia đình làm nghề nón lá lâu năm trong thôn vừa tự hào nói: “Nghề làm nón của làng có lúc thăng lúc trầm nhưng chưa bao giờ nguội lạnh. Hầu hết các thế hệ người làng, nhất là chị em phụ nữ ở đây ngày nay đều luôn ý thức rèn nghề, giữ nghề và tiếp nối truyền nghề lại cho thế hệ sau”.
Trà Lộc là thôn thuần nông, đa phần cuộc sống của người dân dựa vào sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, theo chị Bé nhờ nghề làm nón lá truyền thống có từ xa xưa của tổ tiên lưu truyền lại mà người làng có thêm một nghề để mưu sinh, đỡ đần qua những giai đoạn gian khó như chiến tranh hay thời bao cấp…
Ngày nay thôn Trà Lộc có tổng số 460 hộ dân nhưng có đến khoảng 200 hộ dân chuyên nghề làm nón. “Nhiều phụ nữ theo thời vụ đi làm thêm nghề khác, nhưng vào mùa mưa rét hay lúc hết việc làm lại quay về làm nón kiếm thêm thu nhập. Những lúc này làng có đến 300 hộ dân tham gia làm nón, bởi hầu như ai cũng biết nghề. Ngoài ra, nhiều nữ sinh độ tuổi học cấp 2, cấp 3 cũng học nghề từ bà, từ mẹ và nhiều em đã biết làm nón thành thạo, được xem như là một thành viên làm nghề chính thức khi rỗi rãi việc học”, chị Bé cho hay.
Trong ngôi nhà khiêm nhường nằm ở cuối thôn, bà Cáp Thị Lan, (67 tuổi) được xem là một trong những “nghệ nhân” làm nón đẹp nhất thôn, đang chú tâm vào từng đường khâu hoàn thiện chiếc nón lá. Sau đường kim cuối cùng thắt lại vòng ngoài cùng chiếc nón, bà Lan tranh thủ ngơi tay.
Bà cho biết, mình theo nghề làm nón muộn hơn những người cùng trang lứa bởi nhiều năm tuổi thanh xuân đã xung phong đi tham gia xây dựng công trình đập Trấm (công trình đại thủy nông Nam Thạch Hãn). Khoảng 20 tuổi, bà mới được bà và mẹ truyền nghề. Nhờ chịu khó học hỏi cùng với năng khiếu sẵn có, bà Lan nhanh chóng trở thành “bàn tay vàng” của làng nón Trà Lộc. Nón của bà làm ra bao giờ cũng thuộc loại bền đẹp nhất làng.
Vừa tiếp tục đắp lá lên khuôn chuẩn bị làm chiếc nói mới, bà Lan cho biết, để làm ra được một chiếc nón thì phải qua các công đoạn chính như: vót nan vành - ủi lá – cắt lá – xây lá vào khuôn rồi đến khâu chằm nón (khâu cước cố định nón từ vòng nhỏ trên chóp cho đến vành nón ngoài cùng). “Nghe có vẻ đơn giản vậy nhưng nghề nón muốn học thành thạo cũng mất cả năm trời, người sáng dạ và có hoa tay, năng khiếu thì cũng mất đến vài tháng.
Đến nay, tôi cũng đã dạy, chia sẻ kinh nghiệm cho rất nhiều con cháu và người làng đến học nghề. Đối với mỗi người phụ nữ ở Trà Lộc, nghề chằm nón dường như có sẵn trong máu thịt”, bà Lan bộc bạch.
Thời còn trẻ, mỗi ngày bà Lan có thể làm được đến 3 chiếc nón nhưng nay mắt kém, tay chân không còn linh hoạt nên mỗi ngày chỉ làm được khoảng 2 chiếc. “Mỗi chiếc lấy công làm lãi lời được chừng 30 - 40.000 đồng nhưng cũng vui, vì mình giữ được nghề vừa có thêm thu nhập chi tiêu trong gia đình. Ngoài nghề nón thì ở đây nhà nào cũng làm ruộng, hoa màu nên cũng đảm bảo cuộc sống”, bà Lan nói thêm.
Nón sau khi hoàn thành sẽ tiếp tục được quét một lớp dầu bóng để tăng độ bền và chống thấm nước, trước khi giao cho người thu mua. Theo bà Lan, nón Trà Lộc thường có độ bền lên đến hơn 2 năm nếu ít sử dụng, còn dùng thường xuyên thì tuổi thọ nón cũng lên tới 5-6 tháng.
Cách nhà bà Lan không xa, bà Cáp Thị Thai cũng đang miệt mài bên khung nón. Năm nay 65 tuổi nhưng bà có thâm niên theo nghề làm nón ngót 50 năm nay.
“Lúc 15-16 tuổi là tôi đã biết chằm nón thành thạo rồi. Hồi xưa lứa tuổi chúng tôi hầu như đã biết nghề nón từ rất sớm do ngày nào cũng được chứng kiến, được bày vẽ từ bà, mẹ và những người lớn trong làng.
Hồi đó, mọi người thường tập trung lại ở một gia đình có nhà cửa rộng rãi cùng chằm nón rất vui”, bà Thai kể. Bà Thai nói theo nghề làm nón rất cần đôi mắt tinh tường. Bởi vậy, khoảng trên 70 tuổi, khi đôi mắt đã kém đi không thể xâu được lỗ kim nữa thì người làm nghề thường hoặc là nghỉ hoặc chuyển qua làm các công đoạn khác như bóc lá, ủi lá, vót vành…
“Con cái tôi nay đã lập gia đình hết rồi, không đứa nào theo nghề làm nón. Tuy vậy nhiều đứa cháu vẫn đang theo nghề. Bởi vậy, có kinh nghiệm gì tôi đều bày vẽ hết cho chúng, chỉ mong sao nghề mãi được lưu truyền và phát triển trong tương lai”, bà Thai chia sẻ.
Trăn trở cùng nghề
Nghề làm nón truyền thống thôn Trà Lộc đã được gìn giữ, phát triển qua nhiều thế hệ - Ảnh: ĐV
Sau một hồi tìm hiểu nghề chằm nón cùng bà Thai thì mẹ con chị Nguyễn Thị Thủy cũng mang khung nón sang cùng ngồi làm. Chị Thủy nói rằng thỉnh thoảng các gia đình trong xóm thường tập trung tại một điểm để chằm nón.
“Chằm nón có đông người vừa vui vừa đạt năng suất cao. Lâu lâu mọi người cùng ngồi làm vừa trò chuyện gia đình, xóm giềng rôm rả để quên đi mệt nhọc”, chị Thủy góp chuyện rồi khoe thêm là cô con gái Mai Nghiêm của chị năm nay học lớp 10 nhưng cũng đã biết chằm nón rành rẽ như người lớn. “Gia đình cũng khó khăn, may con bé cũng siêng năng chịu khó học hỏi nên phụ giúp được mẹ làm nón kiếm thêm thu nhập để ăn học.
Tôi người nơi khác về làm dâu đây rồi được mọi người chỉ nghề, nhờ vậy có thêm kế mưu sinh. Nay tôi tiếp tục truyền lại cho con gái”, chị Thủy nói thêm. Ngồi bên mẹ, em Mai Nghiêm thoăn thoắt khâu cước chằm chiếc nón đã gần hoàn thiện. Nghiêm vui vẻ nói: “Hồi lớp 4, lớp 5 ngày nào cũng thấy người lớn chằm nón em thích lắm.
Do được các mẹ, các chị tận tình chỉ bảo nên chỉ một thời gian ngắn là em chằm nón được, đến bây giờ nếu ngày nào nghỉ học là em chằm được 2 cái rồi. Chằm nón không chỉ giúp em phụ giúp thêm được cho gia đình mà còn góp phần gìn giữ nghề truyền thống của làng”. Nghiêm cho biết, em học một buổi nên buổi còn lại ở nhà tranh thủ học bài xong là em lại bày khung ra chằm nón để kiếm thêm thu nhập, phục vụ thêm việc học của mình.
Ở Trà Lộc có rất nhiều nữ sinh như Nghiêm đã biết chằm nón từ lúc còn nhỏ. Cũng nhờ thế mà nghề làm nón được duy trì qua nhiều đời và ngày càng phát triển.
Nón ở Trà Lộc làm ra ngày nào là được thu mua ngày đó nên không sợ đầu ra. “Tôi làm nghề thu gom nón rồi bỏ mối cho thương lái từ nhiều năm nay. Nói chung nón lá Trà Lộc chúng tôi làm ra có chất lượng, được khách hàng đánh giá cao và ưa chuộng nên đầu ra rất ổn định. Ngày nào tôi cũng đi gom nón mà vẫn không đủ bán.
Đặc biệt sau mỗi dịp Tết là chúng tôi càng khan hiếm nón vì người vào miền Nam ai cũng mua nón làm quà”, chị Nguyễn Thị Luyến, chủ một đại lý thu mua nón vui vẻ nói.
Chị Lê Thị Bé, Tổ trưởng Tổ hợp tác nón lá Trà Lộc cho biết, nón lá thành phẩm Trà Lộc hiện có giá từ 50 - 55.000 đồng/chiếc tùy chất lượng. Nguyên liệu làm ra mỗi chiếc nón hiện nay khoảng từ 8.000-10.000 đồng nên theo chị Bé, nếu ai chăm chỉ, chịu khó thì mỗi ngày cũng thu nhập được khoảng 70.000- 90.000 đồng từ nghề.
Ở nông thôn có thêm nguồn thu nhập ổn định như vậy cũng giúp nhiều gia đình cải thiện được cuộc sống. Đặc biệt, nhiều gia đình có con em là học sinh nữ phụ giúp thêm thì thu nhập sẽ còn khá hơn. Chị Bé cho biết hiện nay Tổ hợp tác nón lá Trà Lộc có 30 thành viên tham gia.
Ở tổ hợp tác, các thành viên thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm làm nghề, đầu ra cho sản phẩm. Thời gian qua Tổ hợp tác cũng đã tổ chức tập huấn thêu hoa văn trên nón để đa dạng mẫu mã sản phẩm phục vụ khách du lịch khi về Khu du lịch sinh thái trằm Trà Lộc. Hiện sản phẩm nón lá Trà Lộc cũng đã được trưng bày, giới thiệu, quảng bá tại xã, huyện và qua mạng xã hội để tiếp cận thị trường rộng lớn hơn.
“Với phương châm “Gắn phát triển làng nghề với khai thác tốt tiềm năng du lịch tại Khu du lịch sinh thái trằm Trà Lộc, hiện địa phương đang quyết tâm đưa nón lá thành một sản phẩm du lịch phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay.
Tuy vậy, giá thành sản phẩm hiện vẫn còn tương đối thấp. Vì vậy, qua đây chúng tôi cũng mong muốn thời gian tới các cấp, ngành của tỉnh, huyện tiếp tục hỗ trợ quảng bá, liên kết tìm thị trường tiêu thụ nón lá Trà Lộc với giá thành cao và ổn định hơn, để người làm nghề có thu nhập tương xứng hơn”, chị Bé chia sẻ.
Hiếu Giang
QTO - Lịch sử hình thành và phát triển của vùng đất Quảng Trị gắn với sự tồn tại các làng nghề. Qua thời gian, có nhiều làng nghề đã bị mai một nhưng cũng có không ít làng nghề vẫn đang tồn tại và phát triển. Vì thế, việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống gắn với công tác bảo vệ môi trường là một trong những mục tiêu phát triển trong tổng thể kế hoạch xây dựng nông thôn mới trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
QTO - Trong những năm qua, công tác phát triển các nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống ở huyện Hải Lăng đã có những chuyển biến tích cực, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và ổn định cuộc sống cho người dân khu vực nông thôn.
QTO - Trên cương vị là Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam huyện đảo Cồn Cỏ, anh Đặng Xuân Thành luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; tận tâm, tận tụy...
QTO - Chỉ mới thành lập nhưng Công đoàn cơ sở (CĐCS) Công ty TNHH Scavi Quảng Trị ở Khu công nghiệp Tây Bắc Hồ Xá, xã Vĩnh Chấp, huyện Vĩnh Linh, đã có...
QTO - Thời gian qua, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn (LĐNT) trên địa bàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Nhiều địa phương đã có những...
QTO - Giáo dục hướng nghiệp và phân luồng học sinh (PLHS) sau tốt nghiệp trung học cơ sở (THCS), trung học phổ thông (THPT) là một trong những nội dung...
QTO - Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên (GDNN-GDTX) huyện Vĩnh Linh trong nhiều năm qua đã có bước chuyển mình sâu sắc trên nhiều lĩnh...
QTO - Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, thị trường lao động trong nước chỉ có khoảng 11% lao động có kỹ năng nghề cao và hơn 26% người lao động đã...