Linh hồn trong lá thư bất tử
(QT) - Đến với Bảo tàng Thành Cổ Quảng Trị, mọi người sẽ được đọc một bức thư của một chiến sĩ trẻ gửi cho người vợ mới cưới và người thân nơi quê nhà. Bức thư được đánh giá là “Bức thư của thế kỷ XX”. Những câu từ trong thư thật giản dị tâm tình khiến người có trái tim sắt đá cũng phải rơi lệ. Những lời trăn trối trong thư cũng cho chúng ta biết rằng, những người lính cầm súng vì họ khát khao được hạnh phúc, đất nước được hoà bình. Di tích Thành Cổ Quảng Trị đã trở thành một “Bảo tàng chiến tranh” vô cùng phong phú và sinh động, có giá trị về lịch sử, quân sự và nhân văn. Ngoài những chứng tích về những đoạn tường thành đổ nát còn sót lại, tại đây đang trưng bày hàng trăm di vật và nhiều ảnh tư liệu có giá trị lịch sử về cuộc chiến đấu của quân và dân ta trong 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ năm 1972. Mỗi hiện vật, di vật gắn liền với một chiến công và sự hy sinh cao cả của hàng ngàn chiến sĩ. Trong đó, đặc biệt là lá thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh đã để lại cho người đọc biết bao cảm xúc. Lời lẽ trong thư thể hiện bao nhiêu tâm tư tình cảm, hoài bão đành gác lại phía sau để “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
 |
Thả hoa tri ân tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ trên sông Thạch Hãn - Ảnh: PHƯƠNG HOAN |
“ Quảng Trị 11/9/1972 Toàn gia đình kính thương! Hôm nay con ngồi đây biên vài dòng chữ cuối cùng phòng khi đã “đi nghiên cứu bí mật trong lòng đất” thì gia đình khỏi thấy đó là điều đột ngột ”. Đó là đoạn đầu trích trong bức thư chưa kịp gửi của chiến sĩ Lê Văn Huỳnh, quê xóm Một, xã Lê Lợi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, sinh viên năm thứ 4, Khoa Cầu hầm, khoá 13 của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội gửi cho gia đình và người vợ mới cưới là chị Đặng Thị Xơ ở quê nhà. Bức thư anh viết ngày 11/9/1972, trước lúc anh hy sinh đúng 3 tháng 20 ngày. Bức thư được viết vội trong một trận đánh cuối cùng của chiến sĩ Lê Văn Huỳnh, có nhiều đoạn, mỗi đoạn là tâm tư, tình cảm dành cho người mẹ già yếu, cho người vợ mới cưới, cho anh trai, chị dâu, cho ba mẹ vợ, cho đứa cháu đích tôn, cho bạn thân thuở nhỏ và cho bà con hàng xóm. Mỗi đoạn tuy ngắn nhưng cũng đủ để thể hiện, chấm phá bức chân dung của người lính Cụ Hồ. Viết cho mẹ: “ Mẹ kính mến! Lớn lên trong tay mẹ từ khi còn trứng nước chưa đền đáp công ơn to lớn đó của mẹ thì đứa con út của mẹ đã phải đi thăm bố con rồi... Con rất hiểu đời mẹ khổ đã nhiều nay bao hy sinh nuôi con khôn lớn, song vì đất nước có chiến tranh thì mẹ ơi hãy lau nước mắt cho đời trẻ lại sống đến ngày đón mừng chiến thắng...”. Tuy thương mẹ, chưa đền đáp công ơn nuôi dưỡng, nhưng anh khuyên mẹ “ Thôi nhé mẹ đừng buồn coi như con đã sống trọn đời cho Tổ quốc...”. Trước bản năng sinh tồn, không ai không muốn được sống, nhưng người chiến sĩ ấy đã chuẩn bị cho mình một tư thế rất điềm tĩnh, bởi anh biết hành động và giá trị cái chết để cho ngày chiến thắng, đất nước được hoà bình. Viết cho vợ: “ Em yêu thương! Mọi lá thư đến với em là nguồn động viên em khi xa anh. Song lá thư này đến tay em là nỗi buồn nhất và có lẽ là nỗi buồn đầu tiên trong cuộc đời em. Em ạ! Chúng ta sống với nhau chẳng được là bao thì chiến tranh đã cướp đi của em biết bao tình thương trìu mến”. Đồng thời anh khuyên vợ nên đi bước nữa: “Còn em khi nhận được thư này hãy đừng buồn nhiều cho đời tươi trẻ. Nếu có điều kiện hãy cứ đi bước nữa vì đời còn trẻ lắm ”... Đặc biệt, anh còn dặn dò người vợ, sau ngày hoà bình nếu có điều kiện thì vào lấy hài cốt của anh về, anh chỉ dẫn địa chỉ nơi chôn cất: “ Đường đi như sau: Đi tàu vào thị xã Quảng Trị qua sông Thạch Hãn là nơi anh đã hy sinh khi đưa hàng qua sông. Từ thị xã qua cầu ngược trở lại hỏi thăm về Nhan Biều 1. Nếu tính xuôi theo dòng nước thì ở cuối làng. Về đấy sẽ tìm thấy ghi dòng chữ đục trên mảnh tôn ”. Đọc những lời căn dặn của chồng trong bức thư do một người đồng đội của anh trao lại sau khi anh hy sinh tháng 1/1973, chị Đặng Thị Xơ vừa đau đớn, vừa bàng hoàng kinh ngạc, bởi chị chưa bao giờ được đọc một lá như thế. Không hiểu sao, anh Lê Văn Huỳnh lại biết rõ định mệnh của mình và tương lai của đất nước như thế. Chị khóc nhiều nên bị hỏng một mắt. Chị Xơ cất kỹ lá thư ấy như một lá bùa hộ mệnh. Nó là tình yêu, là sức sống còn lại của chị. Những ngày dài, đêm thâu chị Xơ lấy ra ấp ủ, tâm tình: “ Vì nước anh không về. Thôi... với riêng em, thế cũng đủ! Em chỉ tiếc rằng thời gian bên nhau ngắn ngủi quá. Chúng mình chưa kịp có một đứa con. Mà anh ơi sao thế nhỉ? Tại sao anh ra đi đúng vào ngày chúng mình cưới nhau một năm trước? Mọi điều anh dặn em sẽ làm theo trọn vẹn. Duy có một điều em chẳng nghe đâu. Ngày mẹ còn sống, anh chị Chẩm, cô dì và chú bác cũng cứ khuyên thế, nhưng em sẽ ở vậy, đợi anh thêm mấy chục năm nữa. Chẳng có lâu gì. Ngày ấy chúng ta lại gặp nhau y như ngày mới cưới. Anh bằng lòng chứ? Anh Huỳnh ơi!”. Chị luôn làm theo những điều anh đã dặn trong thư, duy có một điều chị không thực hiện được, đó là không đi bước nữa mà ở vậy cho đến bây giờ. Gần đúng như lời tiên đoán về nơi chôn cất thi thể mình của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh, năm 1973, khi mặt trận đã im tiếng súng, bà Nguyễn Thị Ngân trở về làng cũ tại thôn Thượng Phước, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong làm ăn sinh sống. Thấy trong vườn nhà có 3 ngôi mộ liệt sĩ, có mộ chí khắc tên, trong đó có tên của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh, bà Ngân cũng như bất cứ người dân nào ở vùng này, đã chăm sóc và khói hương chu đáo. Hòa bình lập lại, đã hai lần địa phương đến quy tập những ngôi mộ đó về nghĩa trang của tỉnh, nhưng đều không tìm thấy hài cốt nên chuyện những ngôi mộ cũng dần bị lãng quên. Rồi một ngày cuối năm 2002, chị Xơ và đồng đội tìm về, lần này thì họ đã tìm được anh, ngay chính cái nền đất mà bao lâu nay ai cũng đã tưởng rằng vô vọng. Ông Nguyễn Hậu, con trai bà Ngân, người sau này đã thay mẹ gìn giữ phần mộ của các anh, đã nói một câu giản dị mà chân thật đến bất ngờ: “Tìm mộ liệt sĩ bằng ngoại cảm gì đó cũng không bằng nội cảm của mỗi người, đó là tình đồng đội, tình nhân dân và của gia đình với những người đã hy sinh thân mình vì dân vì nước...” Có lẽ đó chỉ là trong số hàng vạn lá thư mà hàng vạn người lính Thành Cổ Quảng Trị chưa kịp gửi đi trước trận đánh cuối cùng. 40 năm trôi qua, những lá thư như thế tiếp tục được gửi về cho những người đang sống hôm nay và cho cả mai sau. Nhưng có một điều thật kỳ diệu là những dòng chữ viết dưới làn bom đó dù chưa kịp gửi đi thì người ở hậu phương năm xưa, những người đang sống hôm nay và các thế hệ mai sau đã, đang và sẽ còn cảm nhận được nhịp đập của trái tim các anh. Bom đạn có thể giết chết sinh mệnh con người, nhưng không thể diệt được ý chí những người chiến đấu vì một lý tưởng đã chọn. Hàng ngàn người đã ngã xuống, xương máu đã lẫn vào đất, vào sông, hóa thành cây cỏ, thành phù sa bờ bãi. Vì thế mỗi người hôm nay thấm hơn sự hy sinh cao cả của quân dân Quảng Trị cùng biết bao chiến sĩ trên mọi miền đất nước. Cuộc chiến đã qua đi mấy mươi năm nhưng nỗi đau thương mất mát đó vẫn hằn sâu trong lòng của người ở lại. Qua lá thư và tình tiết câu chuyện liên quan vừa nêu, người đọc chứng kiến sự bình thản của người lính đón nhận cái chết đến với bản thân mình. Họ xem cái chết tựa như lông hồng. Liệt sĩ Lê Văn Huỳnh đã gác lại chuyện tình cảm, cuộc sống gia đình, rời xa người vợ mới cưới và cha mẹ già của mình để lên đường chiến đấu. Họ là đại diện cho thế hệ thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ. Không có gì quý hơn độc lập tự do, lý tưởng sống là được cầm súng diệt quân thù, vì vậy họ càng ý thức được trách nhiệm của bản thân trước vận mệnh của đất nước, dân tộc. Dù cái chết cận kề, nhưng họ không lo sợ và tin tưởng đất nước sẽ có ngày toàn thắng. Một cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến ở đây khi trở lại đã cúi đầu trước những di vật của chiến sĩ Thành Cổ. Ông đã ôm mặt khóc khi hướng dẫn viên dịch bức thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh và thốt lên rằng: “Bây giờ tôi mới hiểu tại sao họ đã chiến thắng. Họ đã biết trước tất cả”. NGUYỄN DUY HÙNG