Thách thức việc làm lao động nông thôn thời hội nhập
(QT) - Xét dưới góc độ dân số và lao động, tỉnh Quảng Trị vẫn là một tỉnh thuần nông. Bởi lẽ, dân số sống ở nông thôn gần 80% và lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm trên 65% với 206.800 người. Thời gian qua, nông nghiệp - nông thôn là nơi đảm bảo an ninh lương thực cho tỉnh Quảng Trị, cung cấp nguồn lao động dồi dào và tiềm năng hậu thuẫn đắc lực cho phát triển công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt nông nghiệp đang có nhiều mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong lĩnh vực xuất khẩu, góp phần đưa giá trị xuất khẩu hàng hóa trên địa bàn tỉnh 5 năm 2005 - 2010 đạt 165 triệu USD.
| | |
| Cuối cùng, phải cải tiến và đổi mới cơ chế huy động vốn, sử dụng và quản lý vốn đầu tư. Cần có cơ chế và chính sách phù hợp như chính sách miễn giảm thuế, chính sách tín dụng…để kêu gọi khuyến khích đầu tư từ nhiều nguồn vốn khác nhau vào nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là nguồn vốn FDI vẫn là nguồn vốn quan trọng để thúc đẩy sự phát triển và chuyển giao công nghệ trong ngành nông - lâm - thuỷ sản. | |
| | |
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập, lao động nông thôn tỉnh Quảng Trị đang đứng trước những thách thức. Hiện nay, thời gian sử dụng lao động ở nông thôn mới chỉ đạt 81% thì tính ra có đến 36.855 người chưa có và thiếu việc làm. Mặc dù trong những năm qua, đã có những biện pháp thiết thực nhằm giảm tốc độ tăng dân số nhưng do nhiều nguyên nhân: tăng dân số trong quá khứ cao, sự ảnh hưởng của tập tục phương Đông... nên tốc độ gia tăng nguồn lao động hàng năm của tỉnh còn cao, ước có 15 nghìn người bước vào tuổi lao động. Trong khi đó, với nền kinh tế hiện đại, xây dựng đồng bộ và hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội là một trong những lợi thế cạnh tranh quan trọng để thu hút đầu tư nước ngoài, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế, Nhà nước phải thực hiện việc thu hồi đất canh tác nông nghiệp, chuyển đổi mục đích sử dụng để xây dựng các khu công nghiệp...Đây là yêu cầu khách quan và cấp thiết đối với sự nghiệp phát triển kinh tế, đồng thời đi liền đó là quá trình thu hồi đất canh tác nông nghiệp đã làm nảy sinh nhiều vấn đề bức xúc, trong đó có vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Một thực tế đối với lao động nông thôn hiện nay là thị trường lao động tại khu vực này chưa phát triển nên việc áp dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất (như máy cày, máy gặt liên hợp…) đưa đến lao động truyền thống trong nông nghiệp bị dôi dư. Ngoài ra, lề lối làm ăn trong ngành nông nghiệp truyền thống và thực trạng ruộng đất manh mún, nhỏ lẻ như hiện nay đã hạn chế tính chủ động sáng tạo của người nông dân trong sản xuất kinh doanh cũng như khả năng tiếp cận thị trường của người lao động. Với đặc điểm của nền nông nghiệp là sản xuất nhỏ lẻ, mang tính truyền thống, người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn không được đào tạo về nghề nghiệp và trình độ kinh tế, chuyên môn kỹ thuật. Có thể thấy, cung lao động nông thôn dồi dào nhưng chất lượng chưa cao cả về văn hoá, kỹ năng chuyên môn cũng như hiểu biết về pháp luật và kỹ năng sống. Cụ thể, tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo nghề đến nay là 18,7%, còn rất thấp so với bình quân chung của cả nước (25%). Mạng lưới cơ sở dạy nghề ở khu vực nông thôn còn mỏng, quy mô đào tạo nhỏ. Lao động nông thôn qua đào tạo nghề có sự chênh lệch lớn giữa các vùng kinh tế, nhất là vùng miền núi Đakrông, Hướng Hoá và vùng bãi ngang ven biển khó tiếp cận với việc học nghề. Do đó xu thế hội nhập, sức cạnh tranh về chất lượng lao động thấp, nhiều lao động nông thôn đang đứng trước nguy cơ không có việc và mất việc làm. Xuất phát từ thực tiễn, Việt Nam gia nhập WTO, điều này cũng có nghĩa mọi tầng lớp nhân dân lao động, mọi thành phần kinh tế đều phải chấp nhận sự cạnh tranh trong một môi trường đầy thử thách khắc nghiệt. Hình ảnh của một nền nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, mang tính truyền thống sẽ dần thu hẹp để nhường lại cho mô hình sản xuất lớn - sản xuất hàng hoá đại trà, trang trại...Lực lượng lao động nói chung tất yếu bị dôi dư, trong đó, lực lượng lao động trong nông nghiệp sẽ là chủ yếu. Điều đặc biệt là, lao động dôi dư trong nông nghiệp thường ở độ tuổi trên 30, khó khăn trong việc tiếp thu khoa học kỹ thuật và công nghệ để chuyển đổi cơ cấu ngành nghề. Vì vậy, trước những thách thức đó, việc tìm ra hướng giải quyết việc làm cho lao động nông thôn là một vấn đề có tính cấp thiết đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ, có hệ thống nhiều giải pháp khác nhau. Cụ thể, cần tập trung vào đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đây là một hướng quan trọng để giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn hiện nay. Qua 4 năm thực hiện Chương trình mục tiêu việc làm, tỉnh ta đã xuất khẩu 3.246 lao động (riêng tại huyện Đakrông đến nay đã đưa trên 300 lao động con em người dân tộc đi làm việc nước ngoài). Năm 2010, nhu cầu tuyển dụng ở tất cả các thị trường đều tăng, thị trường chủ lực của Việt Nam như: Malaysia, Hàn Quốc, Đài Loan... Đây cũng chính là cơ hội cho các doanh nghiệp mạnh duy trì năng lực, mở rộng thị trường, chuẩn hoá từ khâu đào tạo đến môi giới, quản lý. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần tập trung vào thực hiện tốt việc thông tin, tuyên truyền về hoạt động xuất khẩu lao động; thành lập và phát huy vai trò của quỹ tín dụng để giúp đỡ lao động nông thôn tham gia xuất khẩu lao động. Bằng hình thức này, người lao động ở nông thôn, đặc biệt là người nghèo, mới có cơ hội tham gia xuất khẩu lao động. Các quỹ tín dụng có thể là ngân sách của Chính phủ, ngân sách địa phương hoặc do những người đã đi xuất khẩu lao động lập ra nhằm giúp đỡ người lao động tham gia xuất khẩu lao động. Thành lập các cơ quan tư vấn miễn phí giúp đỡ người lao động ở nông thôn về thủ tục hành chính và thủ tục tài chính khi tham gia hoạt động xuất khẩu lao động. Trước yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động, Đảng và Nhà nước cần mở rộng các hình thức, cơ sở để đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Lao động nông thôn không chỉ cần có trình độ chuyên môn và cập nhật kiến thức, ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp nông thôn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước mà cần phải có cả kiến thức xã hội, giao tiếp cộng đồng, phát triển bản thân để có được tác phong làm việc nghiêm túc, tuân thủ kỷ luật lao động và có tinh thần đồng đội khi làm việc ở bất cứ môi trường nào. Do vậy cần đẩy mạnh xã hội hoá và đào tạo nghề cho nông dân; ưu tiên đào tạo nghề cho những nông dân bị thu hồi đất nông nghiệp để chuyển sang đất công nghiệp, đô thị. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Để thực hiện tốt vấn đề này cần tập trung chỉ đạo làm tốt công tác quy hoạch, tổ chức lại sản xuất phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, địa phương; bố trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng ổn định, hình thành các vùng sản xuất tập trung, nuôi trồng thuỷ hải sản, trang trại chăn nuôi tập trung, an toàn dịch bệnh. Tiếp nhận, chuyển giao và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào sản xuất, đầu tư nâng cao chất lượng công tác khuyến nông, khuyến ngư nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông sản. Cần có chính sách quy hoạch hợp lý về cây, con giống và tạo được các thị trường nông sản hàng hoá có giá trị trên khắp khu vực nông thôn. Đối với vùng sâu, vùng xa, Nhà nước nên có chính sách thu mua hợp lý, tránh tình trạng thay đổi cây trồng, vật nuôi một cách tự phát, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người lao động. Ưu tiên đầu tư các công trình hạ tầng cơ sở ở nông thôn như giao thông, thuỷ lợi…với mục tiêu tạo việc làm tại chỗ cho người dân. Cuối cùng, phải cải tiến và đổi mới cơ chế huy động vốn, sử dụng và quản lý vốn đầu tư. Cần có cơ chế và chính sách phù hợp như chính sách miễn giảm thuế, chính sách tín dụng…để kêu gọi khuyến khích đầu tư từ nhiều nguồn vốn khác nhau vào nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là nguồn vốn FDI vẫn là nguồn vốn quan trọng để thúc đẩy sự phát triển và chuyển giao công nghệ trong ngành nông - lâm - thuỷ sản. Đồng thời, thúc đẩy sự hoạt động của hệ thống tài chính ngân hàng vào khu vực thị trường lao động nông thôn, nơi tỷ lệ rủi ro cao. Tăng nguồn vốn trung hạn và dài hạn hỗ trợ cho nhân dân, đặc biệt với nông dân trong quá trình tạo việc làm và chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn. Có như vậy, mới tạo ra nhiều việc làm cho lao động nông thôn, đây là con đường cơ bản để xóa đói giảm nghèo, tăng thu nhập cho người nông dân trong xu thế hội nhập. NGUYỄN QUỐC THANH