Phát triển toàn diện nền nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH
* NGUYỄN VĂN BÀI, TUV, Giám đốc Sở Nông nghiệp và PTNT Quảng Trị Những năm qua, bám sát nghị quyết của Tỉnh ủy Quảng Trị về phát triển kinh tế nông nghiệp, nông dân và nông thôn, ngành Nông nghiệp và PTNT tỉnh đã tích cực chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đề ra và đã đạt được những kết quả quan trọng. Đến nay, toàn tỉnh có hơn 19.203 ha cao su; 4.928 ha cà phê; 1.998 ha hồ tiêu, gần 10.725 ha sắn, 4.590 ha lạc, hàng năm trồng mới từ 5.500- 6.000 ha rừng. Tổng sản lượng lương thực có hạt những năm gần đây khá cao, riêng năm 2012 đạt trên 25 vạn tấn. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển dịch đúng hướng, đẩy mạnh sản xuất hàng hoá tập trung, thâm canh, chuyên canh để tăng giá trị trên một đơn vị diện tích. Sự hình thành các vùng chuyên canh mang lại nhiều lợi ích lớn trong tất cảcác khâu từ đầu tư hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất đến tiến hành sản xuất, tiêu thụ và vận chuyển sản phẩm. Công tác tập huấn chuyển giao các tiến bộ KHKT tăng cường liên tục. Mỗi năm, ngành Nông nghiệp Quảng Trị tổ chức hàng trăm lớp tập huấn ứng dụng tiến bộ KHKT thu hút đông đảo nông dân tham gia. Nhờ đó, trình độ canh tác và nhận thức của nông dân được nâng cao rõ rệt. Những ứng dụng KHKT đã làm thay đổi cơ bản chất lượng sản xuất nông nghiệp Quảng Trị.
 |
Đưa cơ giới vào thu hoạch mùa - Ảnh: HVA |
Đáng chú ý là tiến bộ về giống đã đưa sản phẩm ngành nông nghiệp của tỉnh tăng nhanh về cả số lượng lẫn chất lượng. Với diện tích lúa nước khoảng 23.000 ha canh tác, trong đó có trên 12.000 ha lúa chất lượng cao, nhờ sự đầu tư thâm canh cao, sản xuất lúa ở Quảng Trị đã vượt xa mục tiêu đảm bảo an ninh lương thực, tạo ra thương hiệu gạo thơm, ngon, dẻo được người tiêu dùng ưa chuộng. Sản phẩm cà phê chè Catimor ở huyện Hướng Hoá sau khi khẳng định uy tín về chất lượng được thị trường nhiều nước chấp nhận, đã đầu tư để tăng nhanh số lượng đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, bình quân mỗi năm đạt sản lượng 6.100 tấn. Sản phẩm cao su tiêu thụ trong nước và xuất khẩu với số lượng bình quân toàn tỉnh mỗi năm hơn 13.000 tấn. Sản phẩm tinh bột sắn đã xuất khẩu ổn định sang thị trường một số nước trong khu vực góp phần nâng cao cuộc sống người dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc ít người. Sản lượng gỗ khai thác mỗi năm trên 150.000 -170.000 m 3 từ rừng trồng đưa lại cho nông dân khoản thu nhập đáng kể. Đặc biệt, tỉnh đã xây dựng được trên 10.000 ha rừng trồng theo tiêu chuẩn FSC bền vững. Về phát triển thuỷ sản, những năm qua việc nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng đã trở thành thế mạnh trong nuôi trồng thủy sản, hiệu quả kinh tế đạt khá, nuôi tôm sú cho năng suất 2 - 2,5 tấn/ ha; tôm thẻ chân trắng nuôi 2- 3 vụ/năm, đạt năng suất trên 20 tấn/ha. Đội tàu đánh bắt trung và xa bờ tăng cả về số lượng và chất lượng. Để tạo được những vùng chuyên canh bền vững, tỉnh đã đầu tư khá đồng bộ về xây dựng, nâng cấp, cải tạo hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống như các công trình điện, thuỷ lợi, giao thông nông thôn... Theo kết quả Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản 2011, toàn tỉnh có 1.988 km kênh mương, trong đó có 713 km được kiên cố hóa, chiếm 35,9%; 86,3% xã có đường nhựa, bê tông, chiều dài đường trục xã, liên xã 1314,6 km… Đã quan tâm xây dựng các công trình thủy lợi nhỏ cho miền núi để tăng cường năng lực tưới cho vùng sâu, vùng xa. Việc đầu tư xây dựng tốt hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp đã làm chuyển đổi cơ bản điều kiện sản xuất nông nghiệp, tạo sự chủ động trong sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Các chính sách khuyến nông, khuyến công đang được đẩy mạnh triển khai thực hiện góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp chế biến phát triển. Nền nông nghiệp Quảng Trị trong quá trình hình thành nên các vùng chuyên canh ngoài mục tiêu lợi ích kinh tế còn quan tâm đến tính bền vững, yếu tố bảo vệ môi trường sinh thái, bởi sản phẩm nông nghiệp có giá trị hàng hóa cao phải đạt các yếu tố về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đã tăng cường công tác tuyên truyền, vận động nên đã huy động được hệ thống chính trị- xã hội và người dân vào cuộc. Toàn tỉnh đã chọn 29 xã thực hiện điểm, tập trung đầu tư nguồn lực xây dựng một số cơ sở hạ tầng thiết yếu và hỗ trợ sản xuất; bước đầu đã huy động cộng đồng dân cư chỉnh trang cải tạo vườn tạp, nhà ở, đầu tư phát triển sản xuất, vệ sinh thu gom rác thải…Phấn đấu đạt mục tiêu đến năm 2015, tỉnh có 20% số xã đạt chuẩn nông thôn mới làm hạt nhân nhân ra diện rộng. Cơ cấu kinh tế nông thôn đang có những chuyển biến tích cực, tỷ trọng hộ ngành nghề và dịch vụ được tăng lên. Nếu năm 2006 hộ ngành nghề dịch vụ chỉ chiếm 21,34% trong tổng số hộ nông nghiệp, nông thôn thì đến năm 2011 chiếm 27,35%; ngược lại tỷ lệ hộ nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản giảm, từ 78,66% năm 2006 đến năm 2011 tỷ lệ này còn lại 72,65%. So với cách đây 5 năm thì số hộ công nghiệp tăng lên 39,1%, hộ xây dựng tăng 68,3%, thương nghiệp tăng 8,6%, hộ vận tải tăng 62,1%, hộ dịch vụ tăng 75,4%. Trong nội bộ ngành công nghiệp thì công nghiệp chế biến nông, lâm sản phát triển gắn với các vùng nguyên liệu, tạo thêm nhiều việc làm mới, tăng kim ngạch xuất khẩu. Các hình thức tổ chức kinh tế trong nông nghiệp và nông thôn từng bước đổi mới, phát triển phù hợp với cơ chế thị trường, góp phần quan trọng vào việc thực hiện có hiệu quả các dịch vụ đầu vào và đầu ra cho sản xuất của nông dân. Đạt được kết quả trên là nhờ quá trình tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; sự giúp đỡ tích cực, có hiệu quả của các Bộ, ngành Trung ương và sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, kịp thời của các cấp uỷ đảng và chính quyền từ tỉnh đến cơ sở; sự phối hợp hoạt động có hiệu quả giữa các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể trong tỉnh; sự quyết tâm vượt khó, năng động sáng tạo của các doanh nghiệp, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và nông dân trong tỉnh. Nhờ đó, nông nghiệp tỉnh đã vượt qua được nhiều thời điểm khó khăn, khai thác tốt hơn các tiềm năng, lợi thế, né tránh được thời tiết bất thuận, phòng chống giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh có hiệu quả, đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp phát triển liên tục, khá toàn diện, nâng cao đời sống của nông dân, góp phần tích cực vào sự phát triển KT-XH của tỉnh. Để phát huy những thành quả đã đạt được, khắc phục những khó khăn, tồn tại, khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế, tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, thời gian tới cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề: Về chỉ tiêu an ninh lương thực, giữ ổn định diện tích lúa 2 vụ, mở rộng vùng lúa chất lượng cao, đảm bảo an ninh lương thực, nâng cao chất lượng và giá trị hàng hóa nông sản. Sản lượng lương thực có hạt những năm tiếp theo giữ ổn định sản lượng ở mức 23 -23,5 vạn tấn và đầu tư theo hướng chất lượng. Ngoài các yếu tố về giống và kỹ thuật thâm canh thì công tác thuỷ lợi được quan tâm đầu tư, cùng với các công trình thủy lợi hiện có, đê bao vùng trũng và nhiều hồ đập khác ở vùng đồi, núi và vùng cát ven biển đảm bảo ngăn mặn, chống lũ, tưới tiêu chủ động cho trên 75% diện tích lúa ăn chắc 2 vụ. Tiếp tục đẩy mạnh thâm canh cây công nghiệp dài ngày và mở rộng diện tích trồng cây cao su ở những vùng có lợi thế. Đối với chăn nuôi, cần thực hiện đồng bộ các chính sách và giải pháp của đề án phát triển một số giống vật nuôi. Phát triển chăn nuôi theo hướng tập trung, thâm canh, bán công nghiệp và công nghiệp gắn với đảm bảo an toàn dịch bệnh và vệ sinh môi trường. Chú trọng cải tạo chất lượng đàn, thực hiện những chính sách hỗ trợ hiệu quả hơn cho người chăn nuôi. Về lâm nghiệp, nâng chỉ tiêu độ che phủ rừng, một mặt phải tiếp tục tăng cường công tác quản lý, bảo vệ rừng, mặt khác tiến hành xúc tiến khoanh nuôi rừng tự nhiên, đẩy mạnh trồng rừng tập trung; đồng thời thực hiện có hiệu quả các dự án đầu tư về phát triển rừng để đạt được chỉ tiêu đề ra. Về thủy sản, tiếp tục phát huy thế mạnh nuôi tôm chân trắng trên cát 2- 3 vụ trong năm. Đồng thời, đẩy mạnh nuôi thuỷ sản nước ngọt, tiếp tục tăng cường năng lực đánh bắt trung và xa bờ để tăng sản lượng thủy hải sản; thực hiện tốt nhiệm vụ dịch vụ hậu cần nghề cá, bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, bảo tồn biển. Đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất. Khảo nghiệm, chọn lọc những giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao phù hợp với điều kiện phát triển của tỉnh để đưa nhanh vào sản xuất đại trà. Xây dựng các chương trình phòng trừ dịch hại tổng hợp trên cây trồng, các vùng an toàn dịch trong chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản. Thực hiện các biện pháp sản xuất an toàn để đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm sạch của người tiêu dùng. Tổ chức sản xuất nông nghiệp gắn với thị trường. Phát triển các mô hình sản xuất, chế biến nông lâm, thuỷ sản sạch theo tiêu chuẩn ViêtGAP. Thực hiện công tác xúc tiến thương mại, lựa chọn xây dựng thương hiệu một số nông sản có giá trị của Quảng Trị như lúa gạo, hồ tiêu, cà phê... để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và thế giới. Quản lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất, hạn chế tối đa việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất trồng lúa, tiếp tục thực hiện việc đổi thửa, dồn điền tạo điều kiện đưa cơ giới vào các khâu sản xuất và chuyển đổi nghề. Chủ động thực hiện các biện pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, tăng cường công tác dự tính dự báo, bố trí cơ cấu cây trồng và mùa vụ hợp lý, né tránh điều kiện thời tiết bất lợi, giảm thiểu thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh gây ra, đảm bảo sản xuất an toàn, bền vững. Phát triển nông nghiệp không thể tách rời với quá trình tổ chức thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Thực hiện đa dạng hoá các nguồn vốn huy động, khai thác các tiềm năng, lợi thế đẩy mạnh phát triển KT-XH và xây dựng kết cấu hạ tầng, đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới. Tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực, đào tạo nghề cho nông dân. Tiếp tục củng cố nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế trong nông thôn, nhất là kinh tế hợp tác và HTX, phát triển kinh tế trang trại, gia trại nhằm tăng nhanh sản phẩm hàng hoá, làm tốt dịch vụ đầu vào và đầu ra để nông dân yên tâm phát triển sản xuất có hiệu quả. Kịp thời cụ thể hoá và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tăng cường nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho nông dân phát triển sản xuất hàng hoá; mặt khác thực hiện có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội, xoá đói giảm nghèo. Cùng với nhiều chính sách lớn của Đảng và Nhà nước đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn, sự quan tâm của Đảng bộ, chính quyền và các ban ngành chức năng, sự nỗ lực phấn đấu của nông dân, ngành Nông nghiệp và PTNT sẽ chú trọng tập trung các nguồn lực đầu tư cho sản xuất và xây dựng nông thôn mới, phát triển toàn diện theo hướng CNH, HĐH, góp phần tích cực vào sự phát triển nền KT-XH của tỉnh Quảng Trị.