Nơi đụng đầu lịch sử
(QT) - Nhà báo Nguyễn Đình Thuyên là cán bộ Tiền khởi nghĩa, nguyên cán bộ Tuyên huấn tỉnh Quảng Trị; nguyên Phó Ban Tuyên huấn huyện Vĩnh Linh; nguyên cán bộ, phóng viên, biên tập Thông tấn xã Việt Nam; nguyên Trưởng Phân xã Thông tấn xã Quảng Bình - Vĩnh Linh; nguyên Trưởng Phân xã Thông tấn xã giải phóng khu Trị Thiên Huế; nguyên Giám đốc Thông tấn xã tỉnh Bình Trị Thiên đã từ trần. Báo Quảng Trị trang trọng đăng lại bài báo “Nơi đụng đầu lịch sử” của nhà báo Nguyễn Đình Thuyên, bài đăng trên số báo Quảng Trị đặc biệt chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Quảng Trị 1/5 (1972-2002) như là nén tâm hương tưởng nhớ một đồng nghiệp suốt đời tận tụy, tâm huyết với sự nghiệp báo chí cách mạng của quê hương, đất nước.
 |
Nhà báo Nguyễn Đình Thuyên (hàng đầu, thứ hai từ phải sang) tham dự Hội thảo 80 năm Báo chí cách mạng Quảng Trị - Ảnh: TL |
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, Quảng Trị phải gánh chịu vết đau chia cắt hai miền. Mà không chỉ một tỉnh chia cắt, thậm chí một xã cũng bị chia cắt làm đôi. Hai phần ba huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị bên này bờ Bắc sông Bến Hải, một phần ba huyện Vĩnh Linh cùng năm huyện khác của tỉnh Quảng Trị bên kia bờ Nam sông; hai phần ba xã Vĩnh Sơn bên này bờ Bắc sông, một phần ba xã Vĩnh Sơn bên kia bờ Nam sông Bến Hải. Con sông Bến Hải hiền hòa trong xanh ngót hai mươi năm trời biến thành “sông máu”. Sự kiện ấy không chỉ đi vào lịch sử mà đã đi vào thơ ca, nhạc, họa, và đã đóng một dấu ấn không thể phai mờ trong ký ức của người Việt Nam ta. Quảng Trị, một dải đất hẹp nằm ở trung độ của đất nước, trở thành mảnh đất đụng đầu lịch sử ngót hai mươi năm chinh chiến; nơi đọ sức quyết liệt của hai thế lực cách mạng và phản cách mạng. Mỹ- ngụy đã gây ra bao nhiêu thảm khốc cho nhân dân ta, chúng đã lê máy chém ra tận bờ Nam sông Bến Hải với Luật 10/59 “đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”. Đế quốc Mỹ và lũ Việt gian đã gây ra bao nhiêu vụ thảm sát rùng rợn ở Quảng Trị và nhiều nơi khác ở miền Nam như: Hướng Điền, Nhan Biều, Troài Húc Ván, Duy Xuyên, chợ Được, đập Vĩnh Trinh… Thế giới có ai biết rằng một thước đất ở Quảng Trị phải chịu đựng sức công phá của 7 quả bom mìn; có ai biết rằng trên mảnh đất nhỏ hẹp của Quảng Trị bình quân một người dân có đến 3 lính Mỹ-ngụy kìm kẹp; có ai biết rằng hai bên bờ sông Bến Hải, giặc Mỹ đem máy bay B52 ném bom rải thảm hủy diệt hàng mấy tháng liền, có ngày lên đến 105 lần chiếc, chưa kể hàng chục vạn quả đạn từ các pháo hạm bắn vào suốt ngày đêm; có ai tin rằng trên mảnh đất Thành Cổ Quảng Trị chu vi không đầy 4 cây số phải hứng chịu một lượng thuốc nổ bằng bảy quả bom nguyên tử mà Mỹ đã ném xuống Hirosima Nhật Bản trong Thế chiến thứ 2… Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị như báo chí thế giới đã từng ca ngợi là “một thiên anh hùng ca bất diệt” của dân tộc ta, của cả thời đại trong thế kỷ 20… Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nói: “Chúng ta chịu được không phải chúng ta là gang thép, vì gang thép cũng phải chảy với bom đạn của chúng mà vì chúng ta là con người, con người thật sự, con người Việt Nam với 4.000 năm lịch sử, đã giác ngộ sâu sắc trách nhiệm trọng đại trước Tổ quốc, trước thời đại…”. “Vỏ quýt dày có móng tay nhọn”, những cái đầu hiếu chiến của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc không thể hiểu nổi rằng, chính trong lúc những đoàn máy bay B52 đang ném bom rải thảm hủy diệt xuống hai bờ sông Bến Hải thì cũng là lúc hàng ngàn quả đại bác của ta xé gió lao vút qua dòng Bến Hải, chụp xuống căn cứ quân sự của Mỹ ở Dố c Miếu, Cồn Tiên, biến căn cứ giặc Mỹ ở đây thành một biển lửa. Chưa hết, cách bờ Nam sông Bến Hải không xa, Mỹ- ngụy đã lập phòng tuyến Mc.Namara, con mắt thần điện tử, xây dựng vành đai thép, chúng gọi là “nơi bất khả xâm phạm”… nhưng chắc những cái đầu hiếu chiến phía bên kia đại dương cũng không thể hiểu nổi, chỉ trong 5 ngày đêm đầu xuân 1972, quân và dân Quảng Trị đã đập nát hệ thống phòng ngự “bất khả xâm phạm” mạnh nhất của chúng, những phòng tuyến Mc. Namara, những “mắt thần điện tử”, những “vành đai thép”… đã tiêu tan thành tro bụi. Tội ác giặc Mỹ và tay sai bán nước đối với nhân dân ta nói chung và trên đất Quảng Trị nói riêng chồng chất ngút ngàn. Nhưng kẻ đi gieo gió đã phải gặt lấy bão, kẻ đi gây tội ác đã bị thiêu cháy trong biển lửa chiến tranh nhân dân… “Hội chứng Việt Nam” còn đeo đẳng mãi chưa bao giờ dứt trên đất nước Mỹ là vậy đấy! Trên mảnh đất đụng đầu lịch sử này đâu phải chỉ có đấu lực, đấu súng đạn mà còn cả đấu trí, đấu lý giữa hai thế lực chính nghĩa và phi nghĩa của nhân dân ta đối với Mỹ- ngụy, diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Chuyện kể rằng: Lúc Mỹ và tay sai trương lên bên bờ Nam cầu Hiền Lương câu khẩu hiệu đầy tính khiêu khích: “Qua cầu ngả nón trông cầu Cộng nô còn đó ai sầu chăng ai” Và câu: “Trèo lên đỉnh núi ta thề Quyết tâm diệt Cộng mau về cố hương” Thì ngay trong đồng bào Gio Linh, Quảng Trị có mấy câu ca đập lại đích đáng rằng: “Qua cầu không khéo bổ trúc Ngô Dòng nước trăm khe chảy về Hồ Lâm cơn nguy biến nhờ người Cộng Người Cộng vững vàng khó mà xô…” Giặc Mỹ và bè lũ tay sai biết vậy mà không làm gì được bà con ta. Có lần một cụ già ngồi câu cá bên bờ sông Bến Hải, ông cụ bắt được một con cua, mấy tên ngụy ác ôn buông lời khiêu khích: “Ông ơi, ông vứt cái Cộng ấy đi, xấu lắm”. Lập tức ông cụ đập lại một cú đanh thép: “Mấy chú ơi! Con cua nó đẹp là nhờ cái Cộng, nếu vứt đi còn lại ba cái que thì ra cái quái gì nữa (ý cụ nói cờ ba que). Có một câu đầu cửa miệng thể hiện khí phách của bà con ta: “Gan Mai Xá, đá Hảo Sơn”, để nói lên đức tính kiên cường của nhân dân trong chống giặc Pháp và giặc Mỹ xâm lược… Hàng trăm, hàng vạn cuộc đấu khẩu, đấu trí, đấu lý diễn ra hàng ngày, hàng giờ trên mảnh đất này trong ngót 20 năm qua kể sao cho xiết. Nếu như trên mảnh đất Quảng Trị này có vinh dự trách nhiệm đóng vai trò là nơi “đụng đầu lịch sử”, đối với Tổ quốc và nhân dân ta đã sản sinh ra biết bao người con anh hùng của nhiều thế hệ, đã từng đóng vai trò lớn lao trước Tổ quốc, trước thời đại thì ở nơi đây cũng sản sinh ra biết bao con người bình thường mà có đức tính ngoan cường, kiên nghị và trí tuệ thông minh tuyệt vời. Tất cả sự thông minh nhạy cảm trước mọi mưu mô nham hiểm, xảo quyệt của kẻ thù được bắt nguồn từ tấm lòng yêu nước, yêu quê hương xứ sở tha thiết. Hơn 3.000 ngày chống giặc Pháp xâm lược, ngót 20 năm đối đầu với giặc Mỹ, tên sen đầm quốc tế, tên đế quốc hung tàn của thời đại ngày nay, nhân dân ta không một phút sờn lòng. Gần 90% làng mạc, thị xã, thị trấn của Quảng Trị bị bom đạn Mỹ san bằng. Không một tấc đất, ngọn cỏ nào ở Quảng Trị là không nhuộm máu của đồng bào ta. Những địa danh đã đi vào lịch sử như Tà Cơn, Làng Vây, Khe Sanh, Cồn Tiên, Dốc Miếu, Vĩnh Linh, Thành Cổ…và cũng là những tấm bia sống ghi đầy tội ác của giặc Mỹ xâm lược. Đế quốc Mỹ muốn hủy diệt cả màu xanh sự sống nơi đây, nhưng đồng bào ta gan vàng dạ ngọc, nghĩa khí trung trinh, người trước ngã, người sau tiếp bước đứng lên. Đất thép Vĩnh Linh, bờ Bắc Bến Hải, nơi mảnh đất đầu cầu xã hội chủ nghĩa, báo chí thế giới gọi là “miền đất lửa”, là “mảnh đất kim cương’, là “vùng tuyến lửa”, “chỉ còn một phần là đất, phần còn lại là sắt thép”… thì tất cả mọi sinh hoạt của nhân dân đều được chuyển sâu vào lòng đất. Với 110 cây số giao thông hào liên hoàn, với 24.462 mét địa đạo sâu vào lòng đất 35 mét, với 39.844 hầm chữ A kiên cố, với 30.499 hầm cá nhân…quân dân Vĩnh Linh ngày đêm đối mặt với giặc Mỹ hung tàn, với sắt thép, đạn bom rùng rợn chưa từng có trong lịch sử loài người. Bảy vạn nhân dân Vĩnh Linh vừa chiến đấu bảo vệ vững chắc mảnh đất đầu cầu xã hội chủ nghĩa, vừa gửi những người con thương yêu cùng các phương tiện chiến đấu vào miền Nam chia lửa với đồng bào ruột thịt của 5 huyện Quảng Trị ở bờ Nam. Sông Bến Hải đêm đêm vẫn rầm rập rung chuyển những chuyến đò sang ngang đưa đón những người đi về giữa hai miền đất lửa . Khí phách của quân dân Vĩnh Linh đã được Bác Hồ nhiều lần khen ngợi, được cả nước hướng về cổ vũ, được thế giới ca ngợi. Trong thư gửi quân và dân Vĩnh Linh ngày 10/8/1968, Bác Hồ viết: “Đánh cho giặc Mỹ tan tành Năm châu khen ngợi Vĩnh Linh anh hùng” Còn 5 huyện của Quảng Trị bên kia bờ Nam sông Bến Hải trong cảnh kìm kẹp, chết chóc và đau thương vẫn hiên ngang đứng lên chiến đấu. Năm 1964-1965, bà con đã nổi dậy phá banh các ấp chiến lược, giành quyền làm chủ. Xuân Mậu Thân 1968, cùng với cả nước, quân và dân Quảng Trị đã tấn công ào ạt vào các hang ổ, sào huyệt của Mỹ- ngụy, góp phần làm phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Mùa xuân 1971, quân dân Quảng Trị cùng bộ đội chủ lực đập tan cuộc hành quân Đường 9- Nam Lào của đế quốc Mỹ, bước đầu đánh bại học thuyết Ních -xơn “Việt Nam hoá chiến tranh”, “Khe Sanh” trở thành “Khe Tử” của lính thủy đánh bộ Mỹ. Mùa xuân năm 1972, quân dân Quảng Trị đã đập nát tan tành “hệ thống phòng ngự mạnh nhất” của Mỹ, giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Mảnh đất này, quê hương này đã có độ dày hàng trăm năm lịch sử, đã sản sinh ra những người con anh hùng của các thời đại, làm rạng rỡ cho quê hương, cho non sông Việt Nam. Những tên tuổi cũng đã đi vào lịch sử. Tổng Bí thư Lê Duẩn, người con Quảng Trị bao nhiêu năm lăn lộn trong vùng tạm chiếm của miền Nam, ăn đói, nhịn khát và từ trong thực tiễn ấy đã khởi thảo “Đề cương cách mạng miền Nam”, được Bác Hồ, Bộ Chính trị nhất trí tán thành, được các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng ta đồng tình ca ngợi. Quê hương Quảng Trị cũng đã sản sinh ra bao nhiêu đồng chí khác, từ trong tối tăm nô lệ, khi chưa có Đảng ra đời cho đến ngày Cách mạng Tháng Tám thành công đã giữ những vai trò, trọng trách, góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng Tổ quốc và quê hương như các đồng chí: Lê Thế Tiết, Lê Thế Hiếu, Hoàng Thị Ái, Hoàng Hữu Chấp, Hồ Chơn Nhơn, Hồ Xuân Lưu, Trần Hữu Dực, Trần Quỳnh, Đặng Thí, Đoàn Khuê, Trương Chí Công, Nguyễn Hữu Mai, Trần Mạnh Quỳ, Vĩnh Mai, Hồng Chương, Trần Trọng Hoãn, Lê Chưởng, Trần Công Ái, Trần Công Khanh, Trần Xuân Miên, Nguyễn Đức Thưởng, Trần Sâm, Đoàn Thị…những người con mà từ trong khói lửa, nhà thơ Vũ Ngàn Chi đã ca ngợi: “Những người con của Đảng ta Nếp nhăn vầng trán nở hoa anh hùng” Trước kia, khi giặc Mỹ đã tăng cường vào miền Nam trên 60 vạn quân, chưa kể hạm đội 7 và binh chủng không quân hiện đại nhất cùng trên 2 triệu quân ngụy đủ các sắc lính, trang bị tận chân răng, đế quốc Mỹ và tay sai đã ngạo mạn thách thức: “Ai sẽ thắng? miền Bắc sẽ thắng hay miền Nam sẽ thắng?”. Ngay khi ấy, nhân dân ta đã trả lời: “Dân tộc Việt Nam sẽ thắng, kẻ thất bại chính là đế quốc và bè lũ tay sai bán nước”. Nhân dân ta đã biến câu trả lời đầy ý chí kiên cường ấy thành sự thật từ mùa xuân năm 1972 giải phóng Quảng Trị. Đế quốc Mỹ phải cuốn cờ cút khỏi Việt Nam và mùa xuân năm 1975, miền Nam thân yêu hoàn toàn giải phóng. Nhân dân Quảng Trị không những anh hùng trong đánh giặc, bảo vệ quê hương mà rất thông minh và dũng cảm trong xây dựng cuộc sống. Qua hơn một phần tư thế kỷ đất nước sạch bóng quân thù, bà con ta đã bắt tay ươm lại màu xanh, trồng lại sự sống trên mảnh đất hoang tàn. Tiếng súng đạn đã dứt, nhưng máu của bà con Quảng Trị vẫn còn đổ. Trong các chiến dịch rà phá bom mìn, giải phóng đất đai để trồng trọt, đã có hàng nghìn con em Quảng Trị hy sinh… Trên mảnh đất tuyến lửa Quảng Trị ngày nay đã có những bước chuyển thần kỳ. Chỉ lấy một vài con số so sánh cũng đã thấy được sự trưởng thành kỳ diệu. Sản lượng lương thực năm 1990 mới chỉ đạt trên 9 vạn tấn, đến năm 2000 đã tăng lên gần 22 vạn tấn. Năng suất lúa năm 1990 chỉ đạt hơn 18 tạ/ha, đến năm 2000 đã đạt gần 42 tạ/ ha. Hơn 10 ngàn cây số kênh mương đã dẫn nước về chủ động tưới tiêu cho trên 70% diện tích lúa nước. Năm 1990 toàn tỉnh mới có 3 trường học cao tầng, đến nay đã có 160 trường cao tầng. Tỉnh đã có 1 bệnh viện khang trang, 6 trung tâm y tế huyện, 70 trạm xá…Những rừng cây công nghiệp, cây kinh tế bạt ngàn đã phủ kín màu xanh “mảnh đất chết” năm xưa. Lịch sử đã sang trang, đã khép lại quá khứ, nhưng không ai khép lại lịch sử bao giờ. Nỗi đau nhức nhối của bà con ta do hậu quả chiến tranh để lại còn dai dẳng. Những di hại của chất độc da cam đã thấm vào xương, vào máu còn gây nên hậu họa cho bao thế hệ. Nỗi đau của nhiều bà mẹ, người cha còn triền miên, dai dẳng mãi không thôi. Còn bao nhiêu nữa, hàng vạn, hàng chục vạn người chịu tàn phế suốt đời… Không xa bờ Nam sông Bến Hải, nơi “vùng đất lửa” trước kia, Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, nơi yên nghỉ của hàng vạn liệt sĩ con em của quê hương và khắp mọi miền đất nước và cũng là chứng tích tội ác của giặc Mỹ được lưu lại muôn đời. Đứng trên Nghĩa trang liệt sĩ quốc gia Trường Sơn, nhìn về bờ Bắc sông Bến Hải, tất cả là một màu xanh bát ngát vô tận. 40 triệu tấn bom đạn của giặc Mỹ dội xuống, thì đã có 40 triệu cây xanh tạo lại môi trường sinh thái trên đất thép Vĩnh Linh xưa. Địa đạo Vịnh Mốc là một kỳ quan trong lòng đất đã ghi vào lịch sử. Ông Trịnh Cao Trưởng, Viện Khảo cổ học Việt Nam đã viết: “Địa đạo Vịnh Mốc là một trong những tượng đài hoành tráng nhất của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta…”. Một khách du lịch người Anh tên là Peter Grimer đến tham quan ở đây đã viết: “Địa đạo Vịnh Mốc là một thực tế không thể tin nổi về sự mưu trí của nhân dân Việt Nam”. Cầu Hiền Lương, chiếc cầu lịch sử chứng kiến nỗi đau chia cắt ngót hơn 20 năm ròng rã nay đã được xây lại “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” xưa gấp bội lần. Hạ tuần tháng 4/1977 khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang thăm Pháp, một tờ báo lớn của Pháp đã ca ngợi “Một chuyến đi từ ngục tù Côn Lôn vào điện Êlydê”. Đọc bài báo của báo Pháp, tôi xúc động nhớ lại câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: “Cảm ơn Người, Hồ Chí Minh vĩ đại/ Bốn nghìn năm, ta lại là ta…”. Cũng lần đó, trong khi gặp gỡ, tiếp xúc với bà con Việt kiều tại Pháp, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “…31 năm là một quãng dài của một đời người, nhưng dù sao cũng chỉ là một đoạn ngắn trong đời sống của một dân tộc. Trong 31 năm đó, lịch sử tiến những bước nhảy vọt, thời gian như thu gọn lại, biết bao nhiêu biến đổi diễn ra dồn dập trên đất nước ta và trên thế giới. Những lâu đài do chủ nghĩa thực dân cũ và mới xây dựng lên sụp đổ tan tành. Nhiều tên tuổi tưởng chừng sẽ lẫy lừng muôn thưở nay đã chìm đi trong quên lãng… Ngược lại vẫn còn đây, sau 31 năm là Tổ quốc ta độc lập và thống nhất, tươi sáng, vĩ đại và đẹp đẽ hơn bao giờ hết trong lịch sử 4.000 năm của dân tộc…”. Huế, ngày 1/4/2002 NGUYỄN ĐÌNH THUYÊN