Cập nhật: Thứ 3, 04/06/2013 | 13:53 GMT+7

Nguyên nhân lạm phát và vấn đề tồn kho, hai lĩnh vực cần quan tâm giải quyết

(QT) - Tại phiên thảo luận sáng ngày 30/5/2013 đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển KT- XH và ngân sách nhà nước năm 2012; triển khai thực hiện kế hoạch phát triển KT- XH và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2013 của Quốc hội, đại biểu HÀ SỸ ĐỒNG - TUV, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Trị đã tham gia phát biểu, nội dung như sau: Kính thưa Quốc hội! Qua nghiên cứu các báo cáo có liên quan và quá trình giám sát thực tế cũng như tiếp xúc cử tri, tôi xin tham gia một số ý kiến trên cơ sở nhất trí cao với quan điểm cần vực dậy, củng cố niềm tin của thị trường và người dân trong bối cảnh nền kinh tế đang khó khăn hiện nay. Từ cuối năm 2012, ở kỳ họp thứ tư của Quốc hội, những thách thức của hồi phục kinh tế cũng đã được mổ xẻ với nhiều đề xuất mạnh, với nhiều giải pháp. Tại mục tiêu tổng quát Nghị quyết về kế hoạch năm 2013 được thông qua tại kỳ họp đó, tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012 đã được đặt lên đầu tiên.

Đại biểu Hà Sỹ Đồng phát biểu tại hội trường - Ảnh: PHN

Nay sau nửa năm phấn đấu, nhưng bức tranh kinh tế được nhận định là ảm đạm hơn với trên 69% doanh nghiệp báo lỗ, cả hàng và tiền đều ách tắc. Đặc biệt, thành trì các chỉ số tăng trưởng trong nông nghiệp thấp hơn so với cùng kỳ năm trước và đang lung lay theo chiều hướng xấu đi rõ rệt. Mục tiêu tăng trưởng 5,5% được đánh giá là rất khó đạt, trong khi lạm phát thấp không còn được nhìn nhận là thành tích mà là kết quả của chu kỳ kinh doanh, chu kỳ tăng trưởng đang đi xuống. Hay nói như một số ý kiến tại các phiên thảo luận đó là CPI giảm do không còn tiền mà tăng chứ không hẳn là do kiềm chế giỏi. Tại kỳ họp trước, Quốc hội cũng đưa ra yêu cầu khắc phục bất cập trong quản lý, ổn định thị trường vàng, bảo đảm giá vàng trong nước sát với giá vàng quốc tế nhưng sau các phiên đấu thầu ồ ạt của Ngân hàng Nhà nước gần đây thì giá vàng trong nước và quốc tế có lúc chênh nhau đến 6 triệu đồng/1 lượng. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước giải thích, trong các văn bản quy phạm pháp luật, cũng như Nghị định 24 mới nhất về quản lý hoạt động kinh doanh vàng, đã nêu rõ mục tiêu là ổn định thị trường, chứ chưa phải là mục tiêu đưa giá vàng trong nước sát với giá vàng thế giới, dù nghị quyết của Quốc hội với yêu cầu đưa giá vàng trong nước sát với giá vàng quốc tế được thông qua có sự tán thành của nhiều thành viên Chính phủ. Bên cạnh các vấn đề nêu trên, còn không ít các yêu cầu khác được Quốc hội đưa ra cho năm 2013 vẫn chưa được thực hiện kịp thời hoặc không có triển vọng thực hiện được. Và đó chính là lời giải thích cho các lo ngại về sự suy giảm niềm tin của thị trường, của người dân, trong khi niềm tin là yếu tố vô cùng quan trọng để có thể vực dậy nền kinh tế đang lâm “trọng bệnh” như hiện nay. Kính thưa Quốc hội! Theo một số chuyên gia trong và ngoài nước, lạm phát và tăng trưởng không chỉ là những vấn đề của chính sách vĩ mô mà đã trở thành vấn đề mang tính cơ cấu. Tình hình lạm phát và tăng trưởng kinh tế giai đoạn 5 năm từ năm 2008-2012 diễn biến như sau: Lạm phát tăng giảm đột ngột từ 19,9%, năm 2008 giảm mạnh xuống 6,52% vào năm 2009; sau đó tăng gấp đôi vào năm 2010 (11,75%) và quay lại mức cao của năm 2008 (18,13%), sau đó lại giảm mạnh vào năm 2012 (còn 5,05%), phản ánh tính bất ổn định của kinh tế vĩ mô, gây ra những tác động xấu đối với tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đồng thời, theo tình trạng của lạm phát trong 5 năm như trên có thể dự đoán rằng năm 2013 lạm phát có thể tăng trở lại như các năm 2008, 2010 và năm 2011 . Vì vậy, cần có các giải pháp phòng ngừa khả năng này, khi Chính phủ lại thực hiện các biện pháp kích cầu vào thị trường bất động sản (tung ra 30 ngàn tỷ đồng cho vay để kích thích mua nhà ở…). Trong bối cảnh trên, xu hướng tăng trưởng xoay quanh ở mức 5% đến 6% và đạt thấp nhất vào năm 2012. Trong năm 2013, khả năng tăng trưởng kinh tế cũng chỉ nằm trong khoảng 5% đến 5,5% với lý do tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong những tháng cuối năm chưa hé mở những tín hiệu đột biến tích cực. Điều quan trọng hiện nay không phải là cố gắng tạo ra tăng trưởng cao, mà là giữ ổn định kinh tế vĩ mô để thực hiện tái cơ cấu và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực xã hội vào các mục tiêu phát triển. Những nỗ lực cho tăng trưởng cao quá sức của nền kinh tế trong những năm vừa qua cho thấy là không thành công. Nghị quyết của Quốc hội cũng yêu cầu trong năm 2013 phải đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Song báo cáo quá trình tái cơ cấu nền kinh tế chưa đề cập rõ yêu cầu đối với ổn định kinh tế vĩ mô, chưa đáp ứng được mong đợi và kỳ vọng của dư luận xã hội. Kết quả thẩm tra của Uỷ ban kinh tế cũng cho thấy tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng chưa có những chuyển biến cụ thể. Vì vậy, một số ý kiến thậm chí còn cho rằng, Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế sẽ khó triển khai thực hiện thành công. Vậy, vướng mắc ở đâu? có rất nhiều nguyên nhân đã được nhìn nhận, mổ xẻ tại nhiều diễn đàn khác nhau, liên quan đến chỉ đạo điều hành, sự chi phối của các nhóm lợi ích đến cả trách nhiệm lập pháp và giám sát của Quốc hội. Nhưng xét cho cùng là chúng ta chưa đề ra được yêu cầu đối với ổn định kinh tế vĩ mô, trong đó có yếu tố lạm phát là thế nào? Trong thời gian có hạn, tôi xin nêu 2 vấn đề: Thứ nhất: Những nguyên nhân gây lạm phát ở Việt Nam là gì? Các nghiên cứu gần đây cho thấy nguyên nhân chính của lạm phát trong những năm gần đây bao gồm: Cung tiền và tăng trưởng tín dụng quá mức. Nếu năm 2000 tổng phương diện thanh toán M2 của Việt Nam chỉ ở mức 60% GDP thì năm 2010 đã tăng lên tới 130% GDP, với tổng dư nợ tín dụng tăng lên tới 110% GDP. Thực tiễn những năm qua cho thấy, cung tiền và tăng trưởng tín dụng luôn là nguyên nhân gây ra lạm phát. Năm 2007 do tăng trưởng M2 tới 43% và tín dụng tới 53,9% đã gây ra lạm phát cao vào năm 2008. Năm 2012 nhờ những biện pháp quyết liệt giữa mức tăng trưởng M2 ở mức 20% và tín dụng ở mức 7% nên lạm phát đã giảm mạnh so với năm 2011(6,8% so với 18,13%). Lạm phát do chi phí đẩy: Năm 2011 chỉ số giá nguyên, nhiên liệu tăng 21% so với 2010, cao hơn chỉ số CPI, cộng với lãi suất vốn vay cao và việc thực hiện nới lỏng tiền tệ, tài khoá sẽ tạo áp lực lên lạm phát. Lạm phát do cầu kéo: Thể hiện mức bội chi ngân sách cao thì áp lực gây lạm phát càng cao. Việc Chính phủ thắt chặt chi tiêu công đã tác động tích cực tới giảm lạm phát, tuy chưa thật mạnh mẽ. Lạm phát do cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư không hợp lý: Nguyên nhân này là sâu xa và tác động dài hạn do các khoản đầu tư sai, không hiệu quả và do cơ cấu kinh tế không thích ứng với năng lực cạnh tranh của nền kinh tế và không tạo ra giá trị gia tăng cao, tiêu tốn nhiều tài nguyên trong nước... Thực tế tháng 11/2012, báo cáo Quốc hội về việc thực hiện Đề án tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế, Chính phủ nêu một trong bốn khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng nói chung, khu vực ngân hàng nói riêng là vì quyền lợi cá nhân, một số cổ đông lớn của các ngân hàng thương mại và cổ phần yếu kém, thiếu sự hợp tác và chống đối với chính sách, biện pháp cơ cấu lại của Ngân hàng Nhà nước. Đến nay, thay vì báo cáo kết quả giải quyết vướng mắc này thì Ngân hàng Nhà nước vẫn báo cáo rằng đây là một trong các nguyên nhân khiến cho quá trình tái cơ cấu các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém diễn ra chậm hơn so với dự kiến mà không nêu được hướng xử lý và khả năng xử lý. Còn với tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, một trong ba trọng tâm của tái cơ cấu nền kinh tế thì vướng mắc rất quan trọng đã được chính lãnh đạo ngành tài chính chỉ ra qua câu chuyện tái cơ cấu Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Theo lãnh đạo ngành tài chính thì mặc dù Chính phủ đã yêu cầu tổng công ty chuyên phân phối khí của tập đoàn phải có đề án tái cơ cấu vào tháng 9/2012, để khắc phục tình trạng 9,8 tỷ m3 khí đang bị bán rẻ cho một đơn vị cổ phần. Nhưng doanh nghiệp này xin lùi thời gian đến tháng 9/2013, và với động lực của số lãi trước thuế một năm lên đến 13 ngàn tỷ đồng thì vị lãnh đạo ngành tài chính nhận định rằng họ sẽ xin lùi đến tháng 9 để khi nào hết khí thì thôi. Như vậy, các nguyên nhân dẫn tới lạm phát và bất ổn định kinh tế vĩ mô vẫn chưa được xử lý, giải quyết một cách rốt ráo. Những vấn đề nêu trên đã được công khai trên báo chí và đang chờ Quốc hội đưa ra giải pháp xử lý thích đáng mới có thể tạo ra sự ổn định kinh tế vĩ mô lâu dài. Thứ hai đó là vấn đề tồn kho. Chừng nào những vấn đề “tồn kho” của các doanh nghiệp đã được đề cập rất nhiều từ kỳ họp này sang kỳ họp khác của Quốc hội mà vẫn chưa có câu trả lời thoả đáng về cả trách nhiệm và biện pháp khắc phục thì việc khôi phục và duy trì tính ổn định của kinh tế vĩ mô vẫn còn xa vời. Bởi thế, tôi rất mong qua các phiên thảo luận tại kỳ họp này, Quốc hội không chỉ nhận diện rõ những nguyên nhân của lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và vấn đề “tồn kho” mà nghiêm trọng hơn cả là sự tồn kho tiền, hàng và vốn được coi là vấn đề nan giải của nền kinh tế hiện nay, thì vấn đề tồn kho thể chế, tồn kho kiến nghị và đặc biệt là tồn kho trách nhiệm và giải pháp để có thể ưu tiên cả trí lực, tài lực có hạn cho việc giải quyết rốt ráo các vấn đề cấp bách cũng như khởi động lại quá trình tái cơ cấu, tạo chuyển biến căn cơ cho nền kinh tế sẽ khó lòng giải quyết trong thời gian tới. Xin cảm ơn Quốc hội NGUYỄN THỊ LÝ (ghi)



 {name} - {time}
{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận mới nhất

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Xem thêm:

Bác Hồ với phong trào thi đua yêu nước

Bác Hồ với phong trào thi đua yêu nước
03:37 31/05/2013

* HOÀNG VĂN MAI, Trưởng Ban Thi đua- Khen thưởng tỉnh Quảng Trị Sinh thời Bác Hồ rất quan tâm đến phong trào thi đua yêu nước, Người khẳng định rằng thi đua yêu nước là vấn đề...

POWERED BY
Việt Long