Cập nhật: Thứ 2, 19/08/2019 | 06:14 GMT+7

Ngành Khoa học và Công nghệ Quảng Trị không ngừng đổi mới và phát triển

* Trần Ngọc Lân, TUV, Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ Quảng Trị

(QT) - 30 năm xây dựng, đổi mới và phát triển, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự phối hợp của các ngành, các cấp, đặc biệt là sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (KH&CN), hoạt động của ngành KH&CN Quảng Trị đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế- xã hội (KT-XH) của tỉnh.

Lãnh đạo tỉnh và Sở KH&CN kiểm tra tàu trang bị đèn LED trong đánh bắt hải sản . Ảnh: HVA

Thực hiện Nghị quyết 20-NQ/TW, ngày 1/11/2012, của Hội nghị lần thứ sáu BCH Trung ương Đảng (khóa XI) về phát triển KH&CN phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; trên tinh thần đổi mới của Luật KH&CN sửa đổi năm 2013, Đề án Tái cơ cấu ngành KH&CN đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cuả Thủ tướng Chính phủ, ngành KH&CN Quảng Trị đã đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lí, tổ chức KH&CN. Đã chủ trì, tham gia xây dựng, đề xuất các chính sách, quy hoạch, chương trình, đề án của UBND tỉnh trình Tỉnh uỷ và HĐND tỉnh làm cơ sở để ban hành các chủ trương, chính sách, nghị quyết về lĩnh vực KH&CN như: Chương trình hành động số 64-CTHĐ/TU ngày 13/5/2013 của Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW của BCH TƯ Đảng; Nghị quyết số 08/2014/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về phát triển KH&CN tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2015-2020…

Sở KH&CN đã tiến hành cơ cấu lại nhiệm vụ KH&CN gắn với việc phát triển các sản phẩm hàng hóa chủ lực của tỉnh. Các đề tài, dự án đảm bảo nguyên tắc thực hiện theo hướng tập trung, chất lượng và có tính ứng dụng cao, trong đó tập trung phát triển các công nghệ phục vụ sản xuất sản phẩm có giá trị gia tăng và lợi thế cạnh tranh, lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ năng lượng mới, công nghệ sạch... Các nhiệm vụ KH&CN được điều chỉnh theo hướng giải quyết đồng bộ các khâu trong chuỗi giá trị sản phẩm, đầu tư xuyên suốt từ nghiên cứu, hoàn thiện quy trình, đến đưa vào áp dụng sản xuất, thương mại hoá sản phẩm.

Cơ chế tài chính và đầu tư cho KH&CN được đổi mới toàn diện và mang lại kết quả tích cực. Kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN sử dụng ngân sách nhà nước được cấp thông qua Quỹ phát triển KH&CN của tỉnh. Sở KH&CN đã tham mưu UBND tỉnh ban hành và triển khai Quy định về định mức xây dựng, phân bổ quyết toán và dự toán kinh phí đối với nhiệm vụ KH&CN có sử dụng ngân sách nhà nước. Theo đó, đã tiến hành thực hiện cơ chế đặt hàng nhiệm vụ KH&CN và đổi mới cơ chế quản lí kinh phí thực hiện nhiệm vụ KH&CN.

Hệ thống tổ chức KH&CN của tỉnh được củng cố và kiện toàn. Toàn tỉnh hiện có 64 tổ chức KH&CN. Hoạt động của các tổ chức KH&CN ngày càng phát huy hiệu quả, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, triển khai và ứng dụng KH&CN trên địa bàn tỉnh. Các đơn vị sự nghiệp KH&CN giữ vai trò hạt nhân trong hệ thống và chuyển đổi hoạt động theo cơ chế tự chủ.

Đội ngũ cán bộ Sở KH&CN tỉnh được tăng cường cả về số lượng và trình độ chuyên môn. Sở KH&CN đã tiến hành xây dựng đề án rà soát, sắp xếp lại bộ máy của các phòng, đơn vị thuộc sở. Từng bước ổn định về tổ chức, bộ máy hoạt động KH&CN cấp huyện theo đúng quy định. Nội dung, phương thức QLNN về KH&CN thường xuyên được đổi mới và nâng cao chất lượng với phương châm “KH&CN phải xuất phát từ cơ sở và hướng về phục vụ cơ sở”.

Về lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, các nhiệm vụ tập trung vào việc phục vụ xây dựng luận cứ khoa học cho các nghị quyết của Đảng bộ, làm cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, chính sách của tỉnh; nhiều nhiệm vụ đã chú trọng tổng kết về lịch sử, truyền thống cách mạng của địa phương. Các đề tài: “Địa chí Quảng Trị”; “Nghiên cứu xây dựng chương trình và mô hình xã hội hoá học tập ở Quảng Trị”, “Truyền thống lịch sử, văn hoá thị xã Đông Hà với sự phát triển văn hoá đô thị”… đã góp phần giáo dục truyền thống trong các tầng lớp nhân dân, nâng cao nhận thức, lòng tự hào cho các thế hệ về truyền thống quê hương…

Lĩnh vực khoa học tự nhiên, điều tra cơ bản đã tiến hành nhiều dự án điều tra làm cơ sở cho việc quy hoạch vùng nguyên liệu, vùng sản xuất hàng hoá; cung cấp dữ liệu quan trọng để tham khảo, tính toán trong quá trình xây dựng các công trình. Từ đó, tạo cơ sở quan trọng để lãnh đạo tỉnh, các ngành và các địa phương hoạch định mục tiêu chiến lược, xây dựng dự án đầu tư phát triển KT-XH cho địa phương.

Lãnh đạo Sở KH&CN tìm hiểu hỗ trợ ngư dân đăng kí nhãn hiệu sản phẩm cá khô hấp . Ảnh: HVA

Lĩnh vực công nghệ sinh học, đã tiến hành nghiên cứu, tiếp nhận, hoàn thiện quy trình và ứng dụng công nghệ tế bào để bảo tồn, lưu giữ, phát triển và sản xuất các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Sản xuất thành công nhiều loại chế phẩm vi sinh vật phục vụ sản xuất nông nghiệp và xử lí chất thải, bảo vệ môi trường bằng công nghệ tiên tiến hiện đại, chất lượng cao, hiệu quả sử dụng tốt, giá thành thấp, được người dân đón nhận, sử dụng rộng rãi…

Về chế biến nông, lâm, thủy sản, đã tập trung nghiên cứu, ứng dụng, hoàn thiện, đổi mới công nghệ để sản xuất, chế biến sâu theo hướng nâng cao giá trị sản phẩm, nguyên liệu mang tính đặc thù của địa phương như: Xây dựng vùng nguyên liệu và sản xuất các loại trà hòa tan gồm: Chè vằng, cà gai leo- linh chi, linh chi, các loại thực phẩm, thức uống bảo vệ sức khỏe gồm: Các sản phẩm từ đông trùng hạ thảo; tỏi đen... Các nhiệm vụ KH&CN cũng đã chú trọng nghiên cứu, hoàn thiện công nghệ sấy ở nhiệt độ thấp để chế biến, bảo quản một số sản phẩm đặc thù, có giá trị kinh tế cao như: Ném, hồ tiêu, chuối, cá...

Lĩnh vực CNTT và truyền thông, Sở KH&CN đã đẩy mạnh phát triển công nghiệp phần mềm, từng bước đáp ứng nhu cầu phần mềm trên địa bàn tỉnh. Phát triển hạ tầng CNTT... Ứng dụng rộng rãi và hiệu quả CNTT trong hoạt động của các cơ quan QLNN và trong các doanh nghiệp (DN).

Hoạt động QLNN về tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng có nhiều đóng góp tích cực trong việc từng bước nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá, chống gian lận thương mại, hạn chế việc sản xuất và tiêu thụ hàng giả, hàng kém chất lượng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Đã hình thành được mạng lưới kiểm định, hiệu chuẩn về đo lường đáp ứng được yêu cầu phát triển KT-XH của địa phương, góp phần đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của người tiêu dùng.

Hoạt động quản lí sở hữu trí tuệ (SHTT), an toàn bức xạ chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Công tác xác lập quyền sở hữu công nghiệp trên địa bàn có nhiều đổi mới và đạt những kết quả quan trọng. Từ năm 1989 đến ngày 31/12/2018, tổng số các đơn nhãn hiệu hàng hóa mà Cục SHTT tiếp nhận từ tỉnh là 388 đơn và số văn bằng cấp là 197 văn bằng, trong đó, 5 năm số sản phẩm hàng hóa và dịch vụ được đăng kí nhãn hiệu tăng hơn nhiều so với trước.

Hoạt động quản lí công nghệ và thị trường công nghệ đã thực hiện tốt việc quản lí chuyển giao công nghệ, đánh giá, định giá, giám định công nghệ, tư vấn chuyển giao công nghệ; thẩm định công nghệ các dự án đầu tư và thẩm định nội dung KH&CN các quy hoạch phát triển KT-XH của địa phương; hỗ trợ các tổ chức cá nhân đổi mới công nghệ, phát huy sáng kiến, cải tiến kĩ thuật trong sản xuất, kinh doanh. Đến nay, toàn tỉnh thành lập được 2 DN KH&CN và 1 Quỹ Phát triển KH&CN của DN.

Hoạt động thông tin, thống kê KH&CN có nhiều đổi mới, phục vụ đắc lực cho công tác quản lí. Các ấn phẩm chuyên ngành ngày càng cải tiến về nội dung và hình thức, tập trung tuyên truyền sâu rộng chủ trương chính sách, thành tựu, kết quả hoạt động KH&CN… đến người dân và DN. Công tác truyền thông KH&CN được đẩy mạnh với nhiều hình thức tuyên truyền phong phú. Các tin, bài, chuyên mục KH&CN được đăng tải và phát sóng trên các kênh truyền thông đã thu hút được người dân quan tâm đến các thành tựu cũng như hoạt động KH&CN của tỉnh.

Công tác phát triển nguồn lực thông tin KH&CN của tỉnh đã được định hình và triển khai có hiệu quả. Hệ thống CSDL KHCN được cập nhật hằng năm và đã được tích hợp lên Cổng thông tin điện tử KH&CN Quảng Trị.

Hoạt động KH&CN cấp huyện đã đóng góp tích cực vào sự phát triển KT-XH của tỉnh. Công tác quản lí KH&CN trên địa bàn huyện có những chuyển biến tích cực. Tổ chức bộ máy quản lí KH&CN cấp huyện được kiện toàn. Hội đồng KH&CN cấp huyện đi vào hoạt động nền nếp. Một số nhiệm vụ có hiệu ứng lan tỏa lớn, được nhiều địa phương, đơn vị đến tham quan học tập và ứng dụng nhân rộng.

Hợp tác quốc tế về KH&CN có những bước phát triển mới, qua đó đã tiếp nhận, chuyển giao công nghệ nhằm tranh thủ nguồn kinh phí lớn, nguồn nhân lực KH&CN có chất lượng cao và huy động được sự tham gia của nhiều cơ quan, đơn vị để nâng cao tiềm lực KH&CN cho tỉnh, phục vụ phát triển KT-XH địa phương. Tỉnh đã thiết lập được mối quan hệ hợp tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ với hơn 30 viện, trung tâm KH&CN, trường đại học trong cả nước để triển khai thực hiện nhiều nhiệm vụ KH&CN. Ngành đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, tổ chức nước ngoài như: Nhật Bản, CHLB Đức, Cộng hòa Pháp...

Hạ tầng KH&CN được đầu tư phát triển, góp phần nâng cao năng lực quản lí, nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ KH&CN trong tất cả các lĩnh vực. Các trung tâm, đơn vị sự nghiệp KH&CN được củng cố và nâng cấp phục vụ có hiệu quả công tác nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng KH&CN. Hệ thống trang thiết bị đo lường, thử nghiệm, phòng thí nghiệm… được quan tâm đầu tư.

Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển, công tác nghiên cứu triển khai KH&CN của tỉnh, trong từng ngành, huyện, thị xã, thành phố chưa mang lại sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, chưa trở thành nhân tố chủ yếu trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Tiềm lực KH&CN của tỉnh còn yếu chưa ngang tầm với nhiệm vụ được giao. Nhiệm vụ đổi mới công nghệ trong các DN chuyển biến chậm. Đội ngũ cán bộ KH&CN, nhất là cán bộ có trình độ chuyên môn cao còn ít, thiếu chính sách thu hút và quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao thuộc các lĩnh vực KH&CN ưu tiên, chiến lược và đột phá…

Trong những năm tới, KH&CN Quảng Trị tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lí, tài chính đối với tổ chức, hoạt động KH&CN; thực hiện cơ chế tự chủ đối với các tổ chức KH&CN công lập, thực hiện phương thức đặt hàng và khoán kinh phí đến sản phẩm cuối cùng. Đổi mới quy hoạch phát triển nguồn nhân lực, cơ chế, chính sách sử dụng cán bộ KH&CN. Kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy quản lí nhà nước về KH&CN.

Rà soát, hoàn thiện quy hoạch phát triển các lĩnh vực KH&CN theo hướng gắn kết chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát triển KT-XH của tỉnh. Xây dựng và triển khai có hiệu quả các chương trình, kế hoạch KH&CN.

Cơ cấu lại các chương trình, nhiệm vụ KH&CN theo chuỗi giá trị của sản phẩm, tạo giá trị gia tăng. Tập trung triển khai nghiên cứu ứng dụng, chuyển giao công nghệ, ứng dụng các tiến bộ KH&CN để nâng cao hàm lượng KH&CN, đảm bảo nguyên tắc các đề tài, dự án KH&CN thực hiện theo hướng tập trung, chất lượng, có tính ứng dụng cao.

Triển khai có hiệu quả những chính sách mang tính đột phá để khuyến khích và thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong khu vực DN, dịch vụ công. Đẩy mạnh truyền thông, phổ biến thông tin, kiến thức về hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Hỗ trợ đầu tư về cơ sở hạ tầng cho khởi nghiệp.

Phát triển thị trường công nghệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động chuyển giao công nghệ. Thúc đẩy sự liên thông của thị trường KH&CN với thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn. Đẩy mạnh hoạt động sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng.

Tăng cường quan hệ hợp tác về KH&CN với các cơ quan KH&CN trung ương, trường đại học, viện nghiên cứu. Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế về KH&CN với các nước Lào, Thái Lan, Nhật Bản...

Kiện toàn, nâng cao năng lực bộ máy QLNN về KH&CN. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức QLNN về KH&CN phù hợp với đặc thù của tỉnh. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ và năng lực đội ngũ cán bộ quản lí nhà nước về KH&CN. Đẩy mạnh phân cấp nhiệm vụ KH&CN giữa cấp tỉnh với cấp huyện.

Xây dựng tiềm lực KH&CN đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Xây dựng các khu công nghệ, kĩ thuật cao theo mô hình thích hợp với Quảng Trị để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển KH&CN và những thành quả, mô hình về nghiên cứu, ứng dụng KH&CN vào thực tiễn.

Huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn để phát triển KH&CN. Thúc đẩy, khuyến khích khu vực tư nhân đầu tư cho KH&CN và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Hợp tác khoa học, kêu gọi đầu tư các dự án KH&CN của các bộ, ngành trung ương triển khai trên địa bàn.

30 năm đồng hành với sự phát triển của tỉnh, ngành KH&CN Quảng Trị tự hào với những nỗ lực không mệt mỏi để góp sức vào sự phát triển của tỉnh bằng những nghiên cứu khoa học được ứng dụng vào thực tiễn, gắn liền với thực tiễn. Nhìn lại chặng đường 30 năm, tự hào về những thành tựu đã đạt được, ngành KH&CN Quảng Trị tiếp tục đổi mới và phát triển, đưa tri thức nở hoa trên đất quê hương, góp phần phát triển tiềm lực và đưa KH&CN thực sự trở thành động lực cho sự phát triển KT-XH và hội nhập của tỉnh trong thời đại công nghiệp 4.0.



 {name} - {time}
{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận mới nhất

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Xem thêm:

POWERED BY
Việt Long