Cập nhật: Thứ 2, 11/12/2017 | 20:00 GMT+7

Nâng cao chất lượng trên lĩnh vực dân số - kế hoạch hóa gia đình

(QT) - Xác định nâng cao chất lượng trên lĩnh vực dân số và kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) là nhiệm vụ chiến lược, quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh, trong những năm qua, ngành y tế đã đạt nhiều kết quả quan trọng và có nhiều giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 03-NQ/TU của Tỉnh ủy Quảng Trị.

Sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết 03-NQ/TU của Tỉnh ủy, nhận thức của các cấp ủy, chính quyền cũng như cán bộ, nhân dân về công tác DSKHHGĐ đã có sự chuyển biến tích cực. Các cấp ủy đảng, chính quyền đã nhận thức đầy đủ và toàn diện đối với công tác DS-KHHGĐ. Từ chỗ xem việc thực hiện chính sách DS-KHHGĐ chỉ thuần tuý là thực hiện KHHGĐ để giải quyết vấn đề giảm sinh, nay công tác dân số được nhận thức đầy đủ từ quy mô, cơ cấu và chất lượng dân số. Cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể các cấp xác định trách nhiệm, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo công tác DS- KHHGĐ; sự phối hợp của các ngành, đoàn thể đối với công tác DS- KHHGĐ ngày càng chặt chẽ. Nhờ vậy, quy mô gia đình nhỏ từng bước được chấp nhận và trở thành chuẩn mực xã hội.

Mô hình thôn không có người sinh con thứ 3 trở lên đã lan tỏa đến vùng sâu, vùng xa. Ảnh: Quang HIệp

Tổ chức bộ máy DS-KHHGĐ từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục được củng cố, kiện toàn phù hợp với chủ trương cải cách hành chính của Chính phủ, đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn mới. Đến nay đội ngũ cán bộ dân số cơ bản đã được chuẩn hóa theo quy định, có hơn 90% công chức dân số cấp tỉnh, viên chức dân số cấp huyện và 80% viên chức dân số cấp xã được đào tạo nghiệp vụ dân số cơ bản. Các chỉ tiêu cơ bản trên lĩnh vực DS-KHHGĐ đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tỷ suất sinh thô giảm từ 18,1‰ (năm 2010) xuống 16,1‰ ( năm 2015) và 15,8‰ (năm 2016); tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm từ 22,5% (năm 2010) xuống 18,9% (năm 2015) và 18,2% (năm 2016); tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên giảm xuống còn 1,08% (năm 2016); tỷ lệ các cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại từ 60% (năm 2010) lên 64% (năm 2016); tổng tỷ suất sinh giảm từ 2,86 con (năm 2009) xuống 2,48 con (năm 2016); tuổi thọ bình quân trên 68 tuổi (mức bình quân chung cả nước là 73 tuổi); tỷ số giới tính khi sinh năm 2016: 112,5 trẻ sơ sinh nam/100 trẻ sơ sinh nữ (bình quân của cả nước 112,2 trẻ sơ sinh nam/100 trẻ sơ sinh nữ).

Các hình thức tuyên truyền, truyền thông được tiến hành thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như thông qua đội ngũ cán bộ cơ sở. Trong quá trình tổ chức thực hiện, các cấp, ngành đã có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng và phát triển các loại mô hình truyền thông trên cơ sở thế mạnh của mình để tiếp cận phù hợp với từng nhóm đối tượng như mô hình câu lạc bộ dân số và phát triển; câu lạc bộ tiền hôn nhân; đặc biệt, mô hình làng, khu phố không có người sinh con thứ 3 trở lên không ngừng được đẩy mạnh. Tính đến cuối năm 2016, toàn tỉnh có trên 61% thôn, bản, khu phố trong tổng số thôn, bản, khu phố của toàn tỉnh tổ chức phát động mô hình làng không có người sinh con thứ 3 trở lên. Từ năm 2011-2016 đã có 79 làng duy trì từ 3 năm liền và 34 làng duy trì từ 5 năm trở lên không có người sinh con thứ 3 trở lên được UBND tỉnh khen thưởng theo Nghị quyết 06/2010/NQ-HĐND tỉnh với tổng kinh phí 2,6 tỷ đồng.

Hệ thống cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đình (CSSKSS/KHHGĐ) tiếp tục được mở rộng theo hướng đa dạng hóa trên nhiều kênh. Đến nay đã có gần 80% trạm y tế xã đủ điều kiện tự cung cấp dịch vụ CSSKSS như khám, điều trị phụ khoa và cung cấp dịch vụ KHHGĐ như đặt vòng tránh thai, tiêm thuốc tránh thai. Duy trì có hiệu quả chiến dịch truyền thông lồng ghép cung cấp dịch vụ CSSKSS/KHHGĐ tại các địa bàn vùng sâu, vùng xa; thông qua hoạt động này đã cải thiện đáng kể thực trạng SKSS và góp phần thực hiện có hiệu quả chỉ tiêu về KHHGĐ. Bình quân hàng năm có hơn 20.000 lượt phụ nữ được khám, trong đó phát hiện bệnh và được cấp thuốc điều trị cho gần 14.000 lượt người/năm. Đặc biệt, để đảm bảo tính bền vững của chương trình và thực hiện mục tiêu xã hội hóa công tác DS-KHHGĐ, việc cung cấp dịch vụ KHHGĐ được chuyển từ bao cấp hoàn toàn sang tiếp thị xã hội phương tiện tránh thai cho đối tượng có thu nhập thấp, vùng kinh tế- xã hội khó khăn và đẩy mạnh xã hội hóa phương tiện tránh thai và dịch vụ KHHGĐ tại các thành thị và nông thôn.

Tiếp tục thực hiện mục tiêu “Nâng cao chất lượng dân số về thể chất, tinh thần, trí tuệ đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” theo Nghị quyết 03-NQ/ TU của Tỉnh ủy, Chi cục DS-KHHGĐ tỉnh chủ động phối hợp với các sở, ban, ngành và các địa phương tập trung chỉ đạo các mô hình, đề án về cơ cấu dân số, nâng cao chất lượng dân số như: Đề án sàng lọc trước sinh, sơ sinh được triển khai tại 141 xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh; Đề án tư vấn, kiểm tra, sức khỏe tiền hôn nhân triển khai tại 30 xã phường, thị trấn và đã xây dựng được 150 câu lạc bộ “Tiền hôn nhân”, thu hút hơn 5.000 thanh niên sống tại cộng đồng thuộc các huyện, thị tham gia; Đề án kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển triển khai tại 30 xã, thị trấn ven biển và vùng cát…

Mô hình giảm tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống triển khai tại 24 xã đồng bào dân tộc thiểu số thuộc địa bàn huyện Hướng Hóa và huyện Đakrông nhằm cung cấp cho những người vị thành niên, thanh niên người đồng bào dân tộc thiểu số về CSSKSS/KHHGĐ; phổ biến Luật Hôn nhân gia đình; hướng dẫn phương pháp giáo dục giới tính, tình dục cho các bậc cha mẹ đồng bào dân tộc thiểu số có con trong độ tuổi vị thành niên, thanh niên; mô hình tư vấn và chăm sóc người cao tuổi dựa vào cộng đồng triển khai tại 12 xã, phường, thị trấn…

Để nâng cao chất lượng trên lĩnh vực DS-KHHGĐ, trong thời gian tới cần tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công tác dân số, đặc biệt là việc quán triệt, triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) về công tác dân số trong tình hình mới. Triển khai trên tất cả các lĩnh vực từ quy mô, cơ cấu và nâng cao chất lượng dân số; xác định dân số vừa là yếu tố tác động vừa là mục tiêu của sự phát triển; thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân số tại cơ sở. Duy trì, củng cố và tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân số các cấp đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ đáp ứng với sự chuyển hướng từ DS-KHHGĐ sang dân số và phát triển. Thực hiện có hiệu quả sự chuyển hướng có tính bước ngoặt trong định hướng chính sách DSKHHGĐ của tỉnh trong bối cảnh, điều kiện và tình hình mới, cần duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hóa dân số; phân bố dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Hoàng Hạnh Nguyên



 {name} - {time}
{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận mới nhất

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Xem thêm:

Vĩnh Linh phát huy hiệu quả quỹ khuyến học

Vĩnh Linh phát huy hiệu quả quỹ khuyến học
10:15 tối qua

QTO - Xác định phát triển quỹ khuyến học góp phần quan trọng vào thực hiện công tác khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập, vì vậy các cấp hội...

Tiếp nối nghĩa tình tháng 7

Tiếp nối nghĩa tình tháng 7
4:55 sáng qua

QTO - Nghĩa tình tháng 7 là hành trình tri ân của Báo Kinh tế & Đô thị, Báo Quảng Trị để nhân lên tình cảm, sự ghi nhớ công lao của các gia đình chính...

Nghĩa tình dân quân thường trực Lao Bảo

Nghĩa tình dân quân thường trực Lao Bảo
14:39 07/12/2017

(QT) - Theo chân các đồng chí dân quân thường trực thị trấn Lao Bảo, huyện Hướng Hóa, chúng tôi đến thăm mô hình chăn nuôi gà thả vườn của mẹ Hồ Thị Hai, (74 tuổi), ở thôn Ka...

“Điểm sáng” của bản Vây 2

“Điểm sáng” của bản Vây 2
14:35 07/12/2017

(QT) - Với 100% hộ dân là người đồng bào Vân Kiều nhưng 13 năm nay, bản Vây 2, xã Tân Lập, huyện Hướng Hóa vẫn duy trì tốt mô hình “Làng không có người sinh con thứ 3 trở lên”....

POWERED BY
Việt Long