Giảm nghèo bền vững, hiệu quả và thách thức
(QT) - Trong những năm qua, nguồn lực đầu tư cho chính sách giảm nghèo được tỉnh Quảng Trị quan tâm, ưu tiên bố trí nhằm phát huy hiệu quả chính sách. Tính từ năm 2005-2012, nguồn lực đầu tư cho chính sách giảm nghèo toàn tỉnh thực hiện được hơn 3.381 tỷ đồng. Thông qua nguồn lực đầu tư của nhà nước, đã có 67.822 lượt hộ nghèo vay 826.267 triệu đồng để phát triển sản xuất, kinh doanh; 3.652 lao động nghèo, cận nghèo được đào tạo nghề ngắn hạn, tập trung vào các nghề phi nông nghiệp như thêu ren, chằm nón lá, làm chổi đót, chế biến thực phẩm, đồng thời giải quyết việc làm cho 59.970 lao động, trong đó có 5.815 người được xuất khẩu lao động; cấp 96.953 thẻ khám, chữa bệnh miễn phí cho người nghèo và đã có 426.620 lượt người nghèo được khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế của nhà nước; miễn giảm học phí cho 220.924 lượt học sinh, sinh viên; hỗ trợ xây dựng nhà ở cho 13.429 hộ nghèo; chuyển giao khoa học kỹ thuật, kiến thức sản xuất cho 2.658 lượt người nghèo; hỗ trợ pháp lý cho 8.971 lượt người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số; hỗ trợ tiền điện cho 55.011 lượt hộ nghèo với kinh phí 19.804 triệu đồng…
 |
Hạ tầng cơ sở ở miền núi được đầu tư đồng bộ, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững |
Bên cạnh đó, chính sách giảm nghèo được quan tâm, tập trung đầu tư cho các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng biển bãi ngang được quan tâm đầu tư đồng bộ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội địa phương như chương trình đặc biệt dành cho các huyện nghèo trong cả nước theo Nghị quyết 30a của Chính phủ; Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng miền núi (Chương trình 135); chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo (Chương trình 134); chương trình xây dựng Trung tâm cụm xã miền núi, chính sách trợ giá, trợ cước; chính sách hỗ trợ di dân tái định cư; chính sách hỗ trợ đầu tư các xã biên giới…Thông qua các chương trình, chính sách giảm nghèo đặc biệt, bộ mặt ở nông thôn ở khu vực miền núi, các xã nghèo, khó khăn, vùng biển bãi ngang đã có nhiều khởi sắc. Các chỉ tiêu xóa đói giảm nghèo nói chung, đặc biệt là ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa đạt được những kết quả đáng khích lệ, ngày càng xuất hiện nhiều mô hình xóa đói giảm nghèo hiệu quả. Huyện Đakrông là một trong số 61 huyện nghèo nhất cả nước đã được đầu tư, hỗ trợ giảm nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính phủ. Sau hơn 4 năm triển khai chương trình, tỷ lệ hộ nghèo ở Đakrông bình quân mỗi năm giảm từ 5-6%, bộ mặt nông thôn miền núi có nhiều khởi sắc, 100% xã có đường giao thông đến trung tâm xã; 100% xã có điện sinh hoạt, trường tiểu học và trạm y tế; 100% xã được phủ sóng phát thanh; 100% xã có công trình thủy lợi nhỏ; 90% xã được phủ sóng truyền hình; phần lớn các xã biên giới có hệ thống thông tin liên lạc; hầu hết các thôn, bản đều có nhà sinh hoạt cộng đồng. Mặt khác, thông qua chương trình giảm nghèo đã tạo điều kiện xây dựng nhiều mô hình giảm nghèo, phát huy được tiềm năng, thế mạnh của các địa phương, đẩy mạnh sản xuất, tăng thu nhập để giúp hộ nghèo tự lực vươn lên thoát nghèo, điển hình như các mô hình phát triển kinh tế tập thể tham gia xóa đói giảm nghèo, giúp nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn như mô hình “Tổ tín dụng tiết kiệm”; mô hình “Nông dân sản xuất giỏi, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau vượt nghèo và làm giàu chính đáng”; mô hình “Thanh niên lập nghiệp”... Các mô hình di giãn dân lập làng sinh thái, cải tạo vùng cát vùng ven biển hình thành ở huyện Triệu Phong đã di giãn dân cho 423 hộ, với 1.705 nhân khẩu, 840 lao động, hình thành 12 khu dân cư mới đã từng bước chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện sản xuất và hệ sinh thái. Trong 8 năm từ 2005-2012, toàn tỉnh đã giảm được 29.117 hộ nghèo, bình quân mỗi năm giảm 3.639 hộ nghèo, góp phần đưa các mục tiêu, chỉ tiêu về giảm nghèo vượt kế hoạch của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh đề ra với tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm bình quân 3,15%/năm. Bên cạnh những kết quả đạt được, chính sách giảm nghèo đang bộc lộ những bất cập khiến mục tiêu giảm nghèo về lâu dài có thể bị ảnh hưởng nếu không có những giải pháp phù hợp, hiệu quả và mang tính đột phá. Mặc dù chỉ tiêu giảm nghèo đã vượt kế hoạch đề ra nhưng việc giảm nghèo trên địa bàn tỉnh chưa thực sự bền vững, tỷ lệ tái nghèo vẫn còn cao, bình quân mỗi năm tỷ lệ tái nghèo chiếm 3,5% trong số hộ nghèo. Chất lượng cuộc sống của nhóm hộ mới thoát nghèo và hộ cận nghèo còn ở mức thấp, chưa đảm bảo bền vững; các hộ thoát nghèo thực chất chỉ là vượt qua ngưỡng chuẩn nghèo, chất lượng cuộc sống còn khó khăn. Nguy cơ tái nghèo có thể tăng do thiên tai, dịch bệnh, biến động giá cả, tác động của hội nhập và phát triển kinh tế thị trường; cơ hội của người nghèo về việc làm ngày càng khó khăn hơn do đổi mới khoa học, công nghệ, biến động về đầu tư phát triển kinh tế giữa các vùng không đồng đều... Theo số liệu điều tra hộ nghèo tại thời điểm cuối năm 2012, nguyên nhân dẫn đến nghèo trên địa bàn tỉnh tập trung vào một số nguyên nhân như thiếu kiến thức, kinh nghiệm làm ăn 13,5%; thiếu sức lao động 16,6%; sinh đẻ không có kế hoạch, có đông người ăn theo 14,4%; thiếu vốn sản xuất 35,2%; thiếu đất sản xuất 10,7%; không có việc làm 6,1%; thiếu công cụ, phương tiện sản xuất 9,2%; lười lao động, có người mắc tệ nạn xã hội 0,5%; bị tai nạn, ốm đau dài ngày 32,9%; nguyên nhân khác: 10,4%. Tỷ lệ hộ nghèo cao có xu hướng tập trung rõ rệt hơn ở một số vùng miền núi, dân tộc thiểu số, vùng bãi ngang ven biển, khoảng cách chênh lệch về thu nhập có xu hướng gia tăng, từ đó làm cho khoảng cách giàu nghèo ngày càng rõ và sẽ làm cho công cuộc xóa đói giảm nghèo trở nên khó khăn hơn. Hiện nay, nhiều chính sách giảm nghèo nhưng chủ yếu mang tính hỗ trợ như chính sách y tế, giáo dục, nhà ở..., trong khi đó chính sách đầu tư tạo sinh kế cho người nghèo chưa nhiều, suất đầu tư thấp như vốn tín dụng ưu đãi, vay vốn giải quyết việc làm, đào tạo nghề. Các chính sách cũng chưa thật sự hướng vào mục tiêu nâng cao năng lực thị trường cho người nghèo và hỗ trợ họ tiếp cận thị trường, mà còn mang nặng tính bao cấp nên phát sinh tư tưởng ỷ lại của người nghèo, tạo ra xu hướng nhiều hộ dân muốn được vào diện hộ nghèo để được hưởng chính sách. Một số chính sách hỗ trợ người nghèo còn mang tính ngắn hạn, giải pháp tình thế, nên chưa tập trung đúng mức vào giải quyết nguyên nhân của đói nghèo như chính sách hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo, chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo vùng khó khăn, mức hỗ trợ thấp và quy định hộ nghèo phải trực tiếp ký nhận, nhưng đối với vùng miền núi, giao thông đi lại khó khăn, vì vậy cán bộ cấp xã phải trực tiếp chi hỗ trợ cho từng hộ nghèo làm mất nhiều thời gian, công sức, chi phí tốn kém có khi nhiều hơn cả chế độ được nhận như hỗ trợ tiền điện ở mức 30.000 đồng/hộ/tháng; hỗ trợ bằng hiện vật cho sản xuất và đời sống của các hộ nghèo theo các mức 80.000 đồng/người/ năm và 100.000 đồng/người/năm, do đó các chính sách này đã gây khó khăn cho việc thực hiện ở cấp cơ sở, mặt khác tạo ra tâm lý ỷ lại, trông chờ của một bộ phận hộ nghèo, không quyết tâm vươn lên thoát nghèo. Các chính sách hỗ trợ cho nhóm hộ cận nghèo chưa được quan tâm đúng mức, nên có sự mất công bằng giữa những hộ nghèo và cận nghèo, tạo ra tâm lý bức xúc của nhóm hộ cận nghèo khi đời sống của họ lại trở nên khó khăn hơn những hộ nghèo. Một số chính sách hỗ trợ giảm nghèo chậm được triển khai, không phù hợp như Nghị quyết 30a ban hành năm 2008 đến nay không còn phù hợp, do giá cả tăng, lạm phát, mức hỗ trợ thấp. Bên cạnh đó, nguồn lực thực hiện các chính sách giảm nghèo còn dàn trải, chưa đủ mạnh, chính sách gắn với chương trình theo giai đoạn mà chưa hướng đến đối tượng thụ hưởng. Vì vậy khi đã kết thúc chương trình, dự án mà mục tiêu đề ra vẫn chưa thực hiện đầy đủ như Chương trình 134, Chương trình 135 khi kết thúc vẫn chưa hoàn thành mục tiêu, có chương trình, chính sách lớn nhưng đầu tư còn thấp so với nhu cầu thực tế như Chương trình 30a tại huyện Đakrông, nguồn vốn ngân sách phân bổ trong 4 năm (2009- 2012) là 162,5 tỷ đồng, đạt khoảng 48,6% so với nhu cầu vốn bình quân của đề án được duyệt, trong khi đó chỉ số lạm phát hàng năm cao, đã ảnh hưởng đến việc không thể hoàn thành một số mục tiêu đề án đã đề ra. Mặt khác, nhận thức về công tác giảm nghèo ở một số cấp cơ sở vẫn còn hạn chế, một số nơi còn có tư tưởng muốn người dân địa phương mình hưởng lợi từ các chính sách hỗ trợ của nhà nước như về bảo hiểm y tế, tín dụng, hỗ trợ giáo dục, bảo trợ xã hội nên vẫn còn tình trạng có nhiều hộ thu nhập vượt trên chuẩn nghèo quy định nhưng vẫn được bình xét vào hộ nghèo, với lý do cảm thông hoàn cảnh ốm đau bệnh tật nặng, nể nang họ hàng, dòng họ; tách hộ khẩu của những người già… dẫn đến tỷ lệ hộ nghèo giảm thấp, phản ánh không đúng thực trạng đời sống của người dân. Sự gắn kết giữa vay vốn ưu đãi với tập huấn, hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo chưa chặt chẽ, còn thiếu việc định hướng cách làm ăn cho hộ nghèo nên hộ nghèo còn lúng túng khi vay vốn để sản xuất, kinh doanh. Nguyên nhân của thực trạng trên, bên cạnh việc do cơ chế, chính sách còn bất cập thì điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách giảm nghèo. Với điều kiện thường xuyên bị thiên tai, bão lụt xảy ra, hệ thống cơ sở hạ tầng còn thiếu, yếu kém, sản xuất công nghiệp chưa phát triển, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, việc bị ảnh hưởng một đợt thiên tai, bão lụt thì thực trạng đói nghèo sẽ tiếp tục diễn ra, đây là nguyên nhân cơ bản cho việc giảm nghèo không bền vững trên địa bàn tỉnh Quảng Trị. Bài, ảnh: LÊ MINH