
{title}
{publish}
{head}
Không ai còn nhớ nón lá có từ bao giờ, chỉ biết rằng chiếc nón lá đã trở thành vật gắn liền với cuộc đời của rất nhiều thế hệ người dân thôn Trà Lộc, xã Hải Hưng, huyện Hải Lăng. Nón lá Trà Lộc đẹp không chỉ vì được kết tinh dưới đôi bàn tay tài hoa, khéo léo của các mẹ, các chị, mà bởi nó còn gói ghém bên trong hồn quê và ký ức của một làng nghề truyền thống. Tuy nhiên, đứng trước những thách thức của thời đại, làm sao để “giữ lửa” cho nghề, để hồn nghề mãi sáng đang trở thành câu hỏi lớn cần tìm lời giải.
Những bàn tay mất... hoa tay
Đến thôn Trà Lộc, xã Hải Hưng, đi đến bất cứ đâu, người ta cũng dễ dàng bắt gặp hình ảnh những người phụ nữ đang miệt mài chằm nón. Bên cạnh họ bao giờ cũng có một hộp thiếc đựng kim chỉ, lá, cùng 2 – 3 khung chuốt vành. Ở góc quen thuộc trong nhà, chị Lê Thị Bính (sinh năm 1977) đang tỉ mỉ đi từng đường kim trên nón lá.
Các bà, các mẹ tại thôn Trà Lộc miệt mài giữ lửa làng nghề - Ảnh: N.P
Dưới đôi bàn tay khéo léo của chị, chiếc nón lá duyên dáng dần nên dạng, nên hình. Làm quen với chằm nón khi mới chỉ 5 – 6 tuổi, thời gian thấm thoắt trôi, chị đã có 40 năm kinh nghiệm làm nghề. Nón lá không chỉ là vật dụng che mưa, che nắng, mà còn mang theo những giá trị văn hóa của người Việt từ xưa đến nay. Theo chị, làm nón lá quá nhọc nhằn nhưng muốn làm ra chiếc nón đẹp, đòi hỏi người chằm nón phải kiên trì, chịu khó, tỉ mỉ, đặt để nhiều tâm sức, tình cảm của mình vào đó.
“Con gái ở thôn Trà Lộc ai cũng biết chằm nón. Tôi được mẹ dạy làm nón từ nhỏ, lúc đầu làm chưa đẹp nhưng sau dần rồi cũng thành quen. Thời còn con gái, mỗi ngày tôi chằm được khoảng 2 chiếc nón. Giờ có tuổi, mắt mờ đi nên chỉ chằm được khoảng 1,5 cái/ngày. Đây không phải là nghề chính trong nhà nhưng công việc này đã tạo thêm thu nhập, giúp gia đình tôi vượt qua những giai đoạn khó khăn trong cuộc sống”, chị Bính nói.
Gia đình bà Lê Thị Thúy (sinh năm 1972) có 4 đời làm nghề chằm nón. Chia sẻ về các công đoạn làm nón, bà cho hay, để làm được những chiếc nón lá đẹp, bền là cả một nghệ thuật đòi hỏi người làm cần có sự tỉ mỉ, công phu. Lá dùng để làm nón được phơi khô, sau đó sẽ hơ trên nồi than nóng, kéo đi kéo lại, rồi dùng khăn ướt vuốt cho phẳng.
Công việc này khá cầu kỳ và cũng là khâu quan trọng, quyết định đến độ bền và tính thẩm mỹ của chiếc nón. Sau đó sẽ đến công đoạn làm vành nón. Vành nón làm bằng cật tre, nứa vót nhỏ và đều khi nối bắt buộc phải tròn và không chắp, không gợn. Mỗi chiếc nón thường có khoảng từ 15 - 17 vành với kích thước lớn nhỏ khác nhau. Sau khi chuẩn bị xong các vật liệu, người thợ sẽ cho các vành nón vào chiếc khung hình tháp để định hình.
Tiếp đến là công đoạn xếp, xâu lá tơi, lá cọ vào vành nón, rồi dùng sợi cước nhỏ để khâu cố định lại. Nón sau khi hoàn thành sẽ tiếp tục được quét một lớp dầu bóng để tăng độ bền và chống thấm nước, trước khi giao cho người thu mua. Theo bà Thúy, nón Trà Lộc thường có độ bền lên đến hơn 2 năm nếu ít sử dụng, còn dùng thường xuyên thì tuổi thọ nón cũng lên tới hơn nửa năm.
Không riêng chị Bính hay bà Thúy mà tại thôn Trà Lộc hiện có 270 hộ với trên 312 lao động làm nghề chằm nón, chiếm 59,3% so với số hộ trong làng. Thời gian, cách chằm của mỗi người khác nhau nhưng ở những người phụ nữ thôn Trà Lộc ấy lại có một điểm chung là đôi bàn tay bị chai sạn, gần như mất hoa tay bởi thường xuyên cầm kim khâu, bị lá cắt vào tay.
“Tuy thu nhập không cao nhưng nhờ nghề làm nón lá truyền thống có từ xa xưa của tổ tiên lưu truyền lại mà người làng có thêm một nghề để mưu sinh, đỡ đần qua những giai đoạn gian khó như chiến tranh hay thời bao cấp. Nghề làm nón trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của người dân, đặc biệt là người phụ nữ thôn Trà Lộc.
Ban ngày chồng đi làm, tôi ở nhà chằm nón. Màn đêm buông xuống, hai vợ chồng lại hì hục là lá để chuẩn bị cho buổi chằm hôm sau. Mới đó mà đã mấy chục năm trôi qua, bao câu chuyện buồn, vui xảy ra quanh vành nón lá”, bà Thúy bộc bạch.
Giữ nghề của ông cha
Bà Lê Thị Năm (sinh năm 1963) học nghề chằm nón từ mẹ. Đến bây giờ, sau mấy chục năm gắn bó với nghề, bà vẫn không quên được cảm giác hạnh phúc khi tự tay hoàn thiện chiếc nón đầu tiên. Vui nhất là những buổi chằm nón có đông người tham gia, mọi người vừa làm, vừa kể chuyện cho nhau nghe. Nhờ vậy mà mọi mệt nhọc dường như tan biến, năng suất của buổi làm cũng cao hơn so với khi chằm một mình.
Bà chia sẻ: “Mỗi chiếc lấy công làm lãi được vài chục nghìn đồng nhưng cũng rất vui, vì mình vừa làm được nghề truyền thống của quê hương, vừa có thêm nguồn thu nhập trang trải chi tiêu hằng ngày”. Quá trình trò chuyện với chúng tôi, bà Năm tự hào kể về những cô con gái khéo tay của mình.
Lớp dạy nghề vẽ nghệ thuật trên nón lá thu hút đông chị em tham gia - Ảnh: địa phương cung cấp
“Dưới sự hướng dẫn của tôi, chỉ sau vài lần sửa, các con tôi đã có thể tự làm ra sản phẩm của riêng mình. Bọn trẻ tinh mắt, thoăn thoắt đôi tay, ngày làm ra được 3,4 cái nón là chuyện bình thường. Thời điểm con gái tôi ra TP. Đông Hà theo học Trường Cao đẳng đăng Y tế, để có tiền đóng học phí, trang trải tiền sinh hoạt, cháu lại lọc cọc đạp xe từ Đông Hà vào Hải Lăng để chằm nón. Nghĩa lại mà thương”, bà Năm tâm tình.
Truyền nghề cho con gái và những thế hệ về sau là cách mà bà cùng rất nhiều người phụ nữ thôn Trà Lộc đã làm để “giữ lửa” cho nghề truyền thống của ông cha. Nhờ thế mà nghề làm nón được duy trì qua nhiều đời.
Trao đổi với phóng viên, Tổ trưởng Tổ hợp tác nón lá Trà Lộc Lê Thị Bé cho hay, không chỉ 30 thành viên tổ hợp tác mà hầu hết các thế hệ người làng, nhất là chị em phụ nữ ở đây ngày nay đều luôn ý thức rèn nghề, giữ nghề và tiếp nối truyền nghề lại cho thế hệ sau. Những năm qua, xã Hải Hưng nói riêng và chính quyền các cấp nói chung đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm lưu giữ làng nghề truyền thống Trà Lộc.
“Trong xu thế phát triển hiện nay, chằm nón lá chỉ là nghề phụ, thu nhập không cao nên lực lượng lao động trẻ không mặn mà với nghề mà có xu hướng đi làm ăn xa để phát triển kinh tế gia đình. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến nghề làm nón Trà Lộc. Tuy nhiên, nghề làm nón chủ yếu tận dụng lao động nhàn rỗi để có thêm thu nhập cải thiện đời sống nên địa phương vẫn luôn tuyên truyền, vận động và tạo điều kiện để người dân duy trì nghề truyền thống”, chị Bé nói.
Song song với đó, vào các năm 2017, 2023, địa phương đã mở các lớp đào tạo, dạy nghề thêu hoa; vẽ hình nghệ thuật trên nón lá cho người dân nhằm góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời, tìm kiếm, liên kết với đơn vị hoạt động trong lĩnh vực du lịch để quảng bá...
“Các cháu học sinh, khách nước ngoài có dịp đến tham quan, được tự tay làm nón dưới sự hướng dẫn của người dân địa phương tỏ ra rất hào hứng, thích thú. Ngày nhiều du khách tìm đến với làng nghề, mua nhiều sản phẩm sử dụng và làm kỷ niệm. Đây là một trong những cách làm hay giúp làng nghề được biết đến nhiều hơn”, chị Bé thông tin thêm.
Theo thống kê của UBND xã Hải Hưng, hằng năm, từ làng nghề Trà Lộc đưa ra thị trường trên 27.000 cái nón lá/năm. Nghề làm nón mang lại thu nhập ổn định cho người dân địa phương với trung bình 38,4 triệu đồng/người/năm.
Phó Chủ tịch UBND xã Hải Hưng Hà Văn Hồ cho hay: “Địa phương rất mong muốn chính quyền các cấp quan tâm trong vấn đề quảng bá, xúc tiến thương mại cho nón lá Trà Lộc, tổ chức tập huấn nâng cao tay nghề cho người lao động và ban hành chính sách đầu tư hỗ trợ đối với làng nghề truyền thống, cho vay vốn ưu đãi để khuyến khích việc duy trì, bảo tồn và phát triển làng nghề”.
Cũng như nhiều làng nghề khác, nghề nón lá có lúc thịnh, lúc suy, song điều đặc biệt ở đây là ở thời kỳ nào cũng vậy, những người lớn tuổi trong xã luôn đau đáu giữ nghề và miệt mài truyền dạy lại cho thế hệ trẻ.
Từ sức sống bền bỉ và những đôi bàn tay khéo léo của những người thợ lành nghề, những chiếc nón mộc mạc, thanh tao mang thương hiệu Trà Lộc đã được ra đời, tỏa đi khắp trăm miền, che chở nắng mưa và làm đẹp cho đời. Bảo tồn làng nghề truyền thống, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho lao động nông thôn là công việc vô cùng cần thiết trong thời kỳ hội nhập hiện nay.
Để bảo vệ danh tiếng cho làng nghề phát triển bền vững, sản phẩm có cơ hội tiếp cận những thị trường tiềm năng mới, thiết nghĩ nón lá Trà Lộc rất cần được các cấp chính quyền quan tâm xây dựng thương hiệu cho làng nghề, giúp người dân có thể dựa vào đó để làm giàu, đồng thời gìn giữ, bảo tồn và phát triển nghề truyền thống của quê hương.
Nam Phương
QTO - Con đường dân sinh dài gần 1,5 km, nối từ trung tâm Khóm 3 đi vào phần đất canh tác của người dân trên địa bàn thị trấn Bến Quan, huyện Vĩnh Linh đã...
QTO - Ngót một buổi chiều rong ruổi với Chủ tịch Hội Cựu chiến binh xã Hải Sơn, huyện Hải Lăng Phan Giáo, tôi có dịp gặp gỡ, trò chuyện với những cựu chiến...
QTO - Trải qua hàng trăm năm hình thành và phát triển, Thâm Khê (xã Hải Khê, huyện Hải Lăng) luôn giữ cho mình cốt cách riêng có của một làng biển giàu...
QTO - Đông y hay tây y đều là những phương pháp điều trị, hướng tới mục đích chăm sóc sức khỏe tốt nhất cho bệnh nhân. Việc kết hợp điều trị đông - tây y...
QTO - Hơn 3 năm nay, cháu Trần Văn Đạt (sinh năm 2015) ở thôn Phú Ốc, xã Gio Sơn, huyện Gio Linh, phải sống chung với căn bệnh suy thận vô căn, nếu không...
QTO - Đi chợ thuê được gọi là nghề “làm dâu trăm họ”, vì phải thỏa mãn tất cả nhu cầu của khách hàng, kể cả thành viên trong gia đình họ đối với thực phẩm...
QTO - Xác định tầm quan trọng của thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT) trong việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi cho người lao động, ngay từ đầu nhiệm kỳ...
QTO - Có gia đình hạnh phúc, công việc ổn định và nhiều niềm vui cuộc sống, một thời, chị PHAN THỊ MỸ NHÂN, công tác tại Cục Hải quan Quảng Trị đã tự giới...
QTO - 50 năm sau ngày giải phóng, từ một vùng bị chiến tranh tàn phá nặng nề, đến nay, huyện Hải Lăng đang đổi thay và phát triển; thu về nhiều thành tựu...
QTO - Chủ tịch Hội Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày huyện Hải Lăng Nguyễn Thị Quật là người ít tuổi nhất của hội này. Câu chuyện về sự mưu trí, gan dạ...
QTO - Căn cứ theo điểm khoản 1 Điều 44 Thông tư 10/2024/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định “Phôi giấy chứng nhận quyền sử dụng (CNQSD) đất,...
QTO - Trong tiến trình dựng xây và phát triển, mảnh đất và con người Hải Lăng luôn coi cội rễ bền sâu của sự học là động cơ đúng đắn để chiếm lĩnh, làm chủ...