Làm rõ một số nội dung cử tri và đại biểu HĐND tỉnh Quảng Trị quan tâm
(Báo cáo của đồng chí NGUYỄN ĐỨC CƯỜNG, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Trị tại Kỳ họp thứ 2-HĐND tỉnh khoá VI) Tại kỳ họp này, UBND tỉnh đã nghe nhiều ý kiến đóng góp của các đại biểu HĐND tỉnh, báo cáo thẩm tra của các Ban HĐND tỉnh về các Báo cáo và Đề án mà UBND tỉnh đã trình HĐND tỉnh. UBND tỉnh chân thành cảm ơn các ý kiến tham gia đóng góp thiết thực, thẳng thắn và xin nghiêm túc tiếp thu để hoàn chỉnh. Ngoài các vấn đề mà Giám đốc các Sở, ban, ngành báo cáo giải trình trước kỳ họp, thay mặt UBND tỉnh, tôi xin báo cáo làm rõ thêm một số vấn đề mà đại biểu và cử tri quan tâm, như sau: 1. Về một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 1.1 Chỉ tiêu xây dựng nông thôn mới: Tỉnh Quảng Trị hiện có 117 xã thuộc phạm vi thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010- 2020. Năm 2010, tỉnh đã tổ chức điều tra, đánh giá hiện trạng nông thôn theo Bộ tiêu chí quốc gia. Nhìn chung các xã mới đạt được chủ yếu nhóm tiêu chí về văn hóa, xã hội, môi trường, an ninh chính trị; còn các tiêu chí về hạ tầng, kinh tế và các hình thức sản xuất đạt thấp. Xác định đây là một yêu cầu rất nặng nề, do đó UBND tỉnh đã sớm kiện toàn BCĐ của tỉnh theo hướng dẫn của Trung ương, BCĐ đã tổ chức các cuộc họp xây dựng kế hoạch, khảo sát, kiểm tra; chỉ đạo và hướng dẫn các huyện, xã thành lập Ban quản lý cấp xã, tuyên truyền, vận động thực hiện công tác xây dựng quy hoạch, đề án nông thôn mới đảm bảo kế hoạch của Ban Chỉ đạo Trung ương.
 |
Thuyền về trên bến cảng Cửa Việt- Ảnh: HỒ CẦU |
UBND tỉnh đã quyết định chọn 8 xã thí điểm của tỉnh để tập trung nguồn lực xây dựng mô hình điểm, từ đó đúc rút kinh nghiệm để nhân rộng mô hình trong toàn tỉnh. Ngoài ra, UBND tỉnh đã chỉ đạo mỗi huyện chọn từ 2-3 xã để chỉ đạo điểm (tổng cộng 22 xã) nhằm cùng với các xã thí điểm của tỉnh phấn đấu đến năm 2015 đạt mục tiêu Nghị quyết Đảng bộ tỉnh đề ra. Hiện nay, Nghị quyết Đảng bộ tỉnh lần thứ XV xác định đến năm 2015 phấn đấu 15% số xã đạt tiêu chí nông thôn mới. Theo mục tiêu quốc gia, cả nước phấn đấu đến năm 2015 đạt 20% số xã đạt tiêu chí nông thôn mới và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI cũng đặt ra chỉ tiêu 20%. Vì vậy, UBND tỉnh đề nghị HĐND tỉnh cho điều chỉnh chỉ tiêu này để phù hợp với mục tiêu quốc gia. 1.2 Chỉ tiêu phát triển mới doanh nghiệp: Theo báo cáo của Sở KH-ĐT, đến thời điểm hiện nay, số doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là 2.015. Tuy nhiên, qua số liệu của một số cơ quan chức năng như Cục thuế, Liên đoàn Lao động thì số doanh nghiệp thực tế thấp hơn số liệu đăng ký khá nhiều Chương trình hành động của Tỉnh uỷ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV nêu chỉ tiêu phát triển doanh nghiệp mới đến năm 2015 khoảng 1.000-1.200 doanh nghiệp; Kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015 UBND tỉnh trình HĐND tỉnh chỉ tiêu này là 1200-1500 doanh nghiệp. Tuy nhiên, xét thấy rằng việc phát triển doanh nghiệp được quyết định chủ yếu bởi những yếu tố khách quan như tình hình phát triển kinh tế - xã hội, môi trường chính sách, thể chế, năng lực chủ thể tư nhân..., mà đây là những vấn đề còn nhiều biến động do khủng khoảng kinh tế thế giới, khu vực có thể còn tác động trong một vài năm tới. Do đó, UBND tỉnh thống nhất với các ý kiến đại biểu, đề nghị HĐND tỉnh xem xét, không nên đưa ra chỉ tiêu này. Thay vào đó, UBND tỉnh quan tâm tạo môi trường để phát triển các doanh nghiệp mới một cách tốt nhất, tạo điều kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận vốn, tăng năng lực quản lý, đổi mới thiết bị công nghệ, tái cấu trúc phù hợp với tình hình mới để phát triển doanh nghiệp mới một cách tích cực như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra. 1.3. Về danh mục các dự án đầu tư trọng điểm: Bố trí vốn đầu tư cho các công trình, dự án trong kế hoạch 5 năm thực hiện theo đúng định hướng Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh đã đề ra. Tập trung ưu tiên bố trí vốn đầu tư để xây dựng các công trình giao thông có ý nghĩa chiến lược; Đầu tư xây dựng, nâng cấp và cải tạo hệ thống thủy lợi, các hồ chứa; phấn đấu đến năm 2015 đảm bảo công suất tưới, tiêu chủ động cho khoảng 80-85% diện tích canh tác lúa; Mở rộng quy mô nguồn cung cấp và hoàn thiện hệ thống truyền tải điện, nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng điện; Hiện đại hóa mạnh bưu chính - viễn thông và hạ tầng công nghệ thông tin; Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án cấp nước sinh hoạt cho khu vực đô thị; chương trình cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn, miền núi. Một số chương trình, dự án đang trong giai đoạn khảo sát, lập qui hoạch và lập dự án như: Chương trình phát triển nông thôn mới; sắp xếp ổn định dân cư theo QĐ 193; hệ thống đê kè biển, đê kè sông ứng phó với biến đổi khí hậu; Tăng cường năng lực PCCCR; Chương trình phát triển nguồn lợi thuỷ sản... Vì vậy, UBND tỉnh đồng tình với ý kiến của các đại biểu là không xác định cụ thể danh mục công trình, dự án 5 năm mà chỉ lập danh mục đầu tư hàng năm. Đề nghị HĐND tỉnh đồng tình ủng hộ việc này 2. Về mục tiêu tăng trưởng năm 2011 Như báo cáo UBND tỉnh đã trình bày, 6 tháng đầu năm 2011, do ảnh hưởng của tình hình kinh tế, chính trị thế giới nên kinh tế vĩ mô của nước ta tiếp tục có những dấu hiệu bất ổn. Giá các mặt hàng thiết yếu và là đầu vào cho những ngành sản xuất khác tăng cao; lãi suất ngân hàng ở mức cao làm cho các doanh nghiệp khó tiếp cận được nguồn vốn. Trên địa bàn tỉnh, thiên tai, dịch bệnh ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất, kinh doanh. Mặc dù các cấp, các ngành và nhân dân trong tỉnh đã có nhiều nỗ lực song những khó khăn đó đã làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) của tỉnh 6 tháng đầu năm chỉ đạt 8%, thấp hơn so cùng kỳ (Tốc độ tăng GDP cả nước 6 tháng đầu năm cũng chỉ đạt 5,57% trong khi chỉ tiêu đề ra là 6,5-7%). Với diễn biến tình hình kinh tế vĩ mô có thể còn phức tạp nên khả năng chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng cả năm 2011 rất khó đạt kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, việc điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng theo tình hình chung là có cơ sở (định tính) nhưng xác định cụ thể (định lượng) thì chưa có căn cứ. Vì vậy, UBND tỉnh đề nghị giữ nguyên chỉ tiêu này để tiếp tục phấn đấu trong 6 tháng cuối năm. 3. Về chi dự phòng 6 tháng đầu năm 2011 Chi dự phòng ngân sách 6 tháng đối với toàn tỉnh là 52% (33.517 triệu đồng/64.400 triệu đồng KH) trong đó tuyến tỉnh 63,5% (20.341 triệu đồng/32.008 triệu đồng KH) Trong điều kiện nguồn thu của tỉnh còn thấp, kinh phí chi thường xuyên hàng năm của địa phương chủ yếu do TW cân đối nên các khoản phát sinh ngoài dự toán phải sử dụng dự phòng để bố trí thực hiện * Đối với các huyện, thị xã, thành phố: kinh phí dự phòng đã sử dụng 13.176 triệu đồng/32.392 triệu đồng. Các địa phương đã sử dụng dự phòng phục vụ công tác phòng, chống dịch bệnh, thiên tai, kinh phí tổ chức bầu cử Quốc hội và HĐND các cấp, các khoản chi đột xuất khác là đúng mục đích và yêu cầu. * Đối với tỉnh, kinh phí dự phòng đã sử dụng: 20.341 triệu đồng/32.008 triệu đồng. Đầu năm 2011 đến nay, tỷ lệ sử dụng kinh phí dự phòng tương đối cao do có nhiều khoản chi phát sinh có tính chất cần thiết, cấp bách, UBND tỉnh sau khi xin ý kiến Thường trực HĐND tỉnh đã bố trí kinh phí để thực hiện: Kinh phí phục vụ công tác phòng chống dịch bệnh tai xanh ở lợn đầu năm: 2.226 triệu đồng; kinh phí tổ chức Tổng điều tra hộ nghèo, cận nghèo: 810 triệu đồng; Tạm ứng cho các địa phương khắc phục các đợt rét đậm, rét hạn kéo dài đầu năm: 7.000 triệu đồng; Kinh phí triển khai áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO: 950 triệu đồng; Chi hỗ trợ cho các địa phương tổ chức biên soạn và xây dựng lịch sử Đảng bộ xã, phường thị trấn: 500 triệu đồng, Bố trí kinh phí cho các địa phương để tặng thưởng cho 187 gia đình được Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng I,II,III: 1.653 triệu đồng; ngoài ra bổ sung kinh phí do tăng biên chế và chi thường xuyên cho một số đơn vị; chi đảm thực hiện một số nội dung do Tỉnh uỷ, HĐND tỉnh, UBND tỉnh giao…. Như vậy, việc chi ngân sách dự phòng đảm bảo mục đích yêu cầu đặt ra của địa phương theo đúng qui định. Để đảm bảo kinh phí thực hiện các nhiệm vụ đột xuất cuối năm, sau khi được Thường trực HĐND tỉnh đồng ý, UBND tỉnh đã bố trí từ nguồn tăng thu năm 2010: 5.849 triệu đồng bổ sung vào kinh phí dự phòng 2011. UBND tỉnh đang trình Bộ Tài chính bổ sung 50% kinh phí khắc phục thiệt hại trong sản xuất nông nghiệp theo chủ trương của Chính phủ để hoàn nguồn dự phòng; đồng thời UBND tỉnh sẽ quản lý chặt chẽ nguồn dự phòng để đảm bảo các khoản chi phát sinh trong 6 tháng cuối năm. Cả 2 nguồn trên được bổ sung thì ngân sách dự phòng sẽ là 20 tỷ/32 tỷ kế hoạch cho khoảng 4 tháng còn lại. 4. Tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch XDCB năm 2011: Thực hiện Nghị quyết của HĐND tỉnh; tổng vốn đầu tư XDCB từ ngân sách nhà nước được HĐND tỉnh giao đầu năm là 1.119.800 triệu đồng, tăng 8,2% so với đầu năm 2010. Tuy nhiên, sau khi làm với các Bộ, ngành TW và được Chính phủ chấp thuận đã huy động thêm 896.509 triệu đồng từ ngân sách TW, nâng tổng vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước do địa phương quản lý đến nay lên 2.016.309 triệu đồng, bằng 180% so với kế hoạch được HĐND tỉnh giao và tăng 8,8% so với cùng kỳ năm 2010. Đây là sự nỗ lực, cố gắng lớn của lãnh đạo tỉnh nhằm bổ sung thêm nguồn lực đầu tư phát triển và góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Tuy nhiên, thực hiện Nghị quyết 11/ NQ-CP của Chính phủ, TW đã tạm ngừng giải ngân tất cả các công trình khởi công mới của kế hoạch 2011, trong đó có 22 công trình khởi công mới với số vốn đã bố trí là 48.980 triệu đồng không thuộc đối tượng cắt giảm, điều chuyển vốn và 32 công trình khởi công mới với số vốn kế hoạch đã bố trí là 137.750 triệu đồng. Để tháo gỡ khó khăn, UBND tỉnh đã có chỉ đạo KBNN tỉnh, trước mắt cho giải ngân 12 dự án khởi công mới cấp bách với số vốn bố trí là 57.200 triệu đồng. Nhờ vậy, tiến độ giải ngân kế hoạch XDCB tháng 7/2011 có khá hơn. Từ tỷ lệ giải ngân chung đến 30/06/2011 là 39,33% kế hoạch (như trong báo cáo của UBND trình HĐND tỉnh) đã nâng lên 48,5% kế hoạch vào 31/7/2011 (theo số liệu giải ngân mới được cập nhật); Đến 31/7/2011, tỷ lệ giải ngân so với kế hoạch vốn được HĐND tỉnh giao đầu năm đạt 60,38% (30/6/2011 là 52,07%) và tỷ lệ giải ngân nguồn vốn bổ sung đạt 33,67% (30/6/2011 là 23,42%). Việc giải ngân vốn bổ sung đạt thấp là do: Nguồn vốn CTMT quốc gia được TW thông báo chậm và khi triển khai thì gặp khó khăn do phần lớn các hạng mục là khởi công mới nên không giải ngân được hoặc có tỷ lệ giải ngân đạt thấp. Do thực hiện chủ trương của Chính phủ, nên tỷ lệ giải ngân một số công trình, dự án sẽ không đảm bảo tiến độ (danh mục cụ thể đã có trong báo cáo tình hình KT-XH 6 tháng đầu năm 2011). Trong bối cảnh thực hiện quyết liệt Nghị quyết 11/ NQ-CP của Chính phủ, việc điều hành thực hiện kế hoạch XDCB sắp đến sẽ còn gặp nhiều khó khăn hơn do: Nguồn vốn kế hoạch 2011 phải giải ngân đến 31/12/2011 (không được phép kéo dài như mọi năm) các nguồn vốn chương trình MTQG, các khoản TW hỗ trợ mục tiêu, nếu không giải ngân hết sẽ thu hồi và không được chuyển tiếp thực hiện trong năm 2012; việc điều chuyển vốn chỉ thực hiện cho các dự án nội bộ. Do vậy, các huyện , thị xã, thành phố và các chủ đầu tư cần phải đặc biệt quan tâm, nếu giải ngân không hết trước 31/12/2011 mà không kịp thời đề nghị điều chuyển vốn thì sẽ bị TW thu hồi và Tỉnh sẽ bị mất vốn. Do vậy, UBND tỉnh sẽ tăng cường công tác chỉ đạo và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến độ giải ngân nguồn vốn XDCB và xử lý nghiêm các chủ đầu tư, các Ban QLDA có tiến độ giải ngân không đạt yêu cầu. 5. Về nhiệm vụ thực hiện dự toán thu ngân sách năm 2011 5.1. Tình hình thực hiện 6 tháng đầu năm: Thu NSNN trên địa bàn: 683,388 tỷ đồng, đạt 76% dự toán TW giao và bằng 153% cùng kỳ năm trước, trong đó: Thu nội địa: 408,763 tỷ đồng, đạt 64% dự toán TW giao và bằng 136% so với cùng kỳ năm trước; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu: 270,515 tỷ đồng, đạt 104% dự toán TW giao và tăng 84% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Thuế XNK, thuế TTĐB hàng nhập khẩu 3,321 tỷ đồng bằng 18% dự toán TW; Thuế GTGT hàng nhập khẩu 267,204 tỷ đồng bằng 110% dự toán TW. 5.2 Dự kiến thực hiện năm 2011: Căn cứ tình hình thực hiện dự toán thu 6 tháng đầu năm, dự kiến chỉ tiêu thực hiện cả năm 2011 là 1.146 tỷ đồng, trong đó: a. Thu nội địa: Dự kiến: 746 tỷ đồng, bằng 118 % dự toán TW giao, bằng 114,7% dự toán HĐND tỉnh giao đầu năm, tăng 51 tỷ đồng và bằng 104,3% dự toán UBND tỉnh giao tăng thêm khi thực hiện Nghị quyết số 11/NQ-CP của Chính phủ. b. Thu từ hoạt động XNK: Uớc thực hiện số thu xuất nhập khẩu năm 2011 đạt 400 tỷ đồng (đạt 153,8% so với dự toán TW, 114,2% dự toán địa phương), trong đó: Thuế XNK + TTĐB: 5,5 tỷ đồng; Thuế GTGT: 394,5 tỷ đồng. c. So sánh chỉ tiêu chung kế hoạch thu ngân sách năm 2011. Dự toán TW giao đầu năm: 890 tỷ đồng (Nội địa: 630 tỷ, XNK: 260 tỷ). Dự toán TW tăng thêm thực hiện NQ số 11 (tăng 8%) = 890 x 1,08 = 961 tỷ đồng Dự toán HĐND tỉnh giao đầu năm: 1.000 tỷ đồng (Nội địa: 650 tỷ, XNK: 350 tỷ) Dự toán tỉnh tăng thêm thực hiện NQ số 11 (tăng 10%) = 1.000 x 1,1 = 1.100 tỷ đồng. Như vậy ước thực hiện năm 2011 (1.146 tỷ đồng) bằng 128% so với dự toán TW giao đầu năm; bằng 119% dự toán TW giao thực hiện NQ số 11; bằng 114,6% dự toán HĐND tỉnh giao đầu năm bằng 104% dự toán tỉnh tăng thêm thực hiện NQ số 11 (46 tỷ đồng). * Số tiết kiệm 10% chi thường xuyên năm 2011 thực hiện theo Nghị quyết số 11/NQ-CP là: 16,897 tỷ đồng, trong đó cấp tỉnh; 6,531 tỷ đồng, cấp huyện: 10.366 triệu đồng. * Đề nghị HĐND tỉnh điều chỉnh chi tiêu thu ngân sách năm 2011 tăng thêm 10% theo NQ số 11 của Chính phủ, từ 1.000 tỷ đồng lên 1.100 tỷ đồng; tiết kiệm chi thường xuyên theo Nghị quyết 11 của CP là 16,897 tỷ đồng, trong đó cấp tỉnh 6,531 tỷ đồng, cấp huyện 10,366 tỷ đồng. (còn nữa)