Giải trình, làm rõ những vấn đề cử tri và đại biểu HĐND tỉnh Quảng Trị quan tâm
(QT) - LTS: Như tin đã đưa kỳ họp thứ 14, HĐND tỉnh Quảng Trị khóa VI diễn ra trong 3 ngày, từ ngày 8-10/12/2014. Tại kỳ họp này lãnh đạo UBND tỉnh và các sở, ngành liên quan đã giải trình, làm rõ những vấn đề cử tri và đại biểu HĐND tỉnh quan tâm. Dưới đây là lược ghi những nội dung giải trình.
.jpg) |
Đầu tư xây dựng, nâng cấp âu tàu đảo Cồn Cỏ- Ảnh: HỒ CẦU |
Trả lời câu hỏi của đại biểu vì sao tỉ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh 2 năm liên tục không đạt kế hoạch đề ra, nguyên nhân và giải pháp khắc phục? - Đồng chí Nguyễn Văn Bài, Giám đốc Sở Nông nghiệp-PTNT cho biết: Năm 2013 số hộ nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 85,6%/85,8%, bằng 99,8% kế hoạch. Đến cuối năm 2014 tỉ lệ hộ nông thôn sử dụng nước sạch ước đạt 86,06%/87,2%, bằng 98,69% kế hoạch. Lý do chưa đạt kế hoạch đề ra có nguyên nhân do bão lũ năm 2013, các công trình cấp nước tập trung dạng tự chảy chủ yếu ở 2 huyện Đakrông, Hướng Hóa bị hư hỏng chưa được khắc phục, sửa chữa nên tỉ lệ người dùng nước hợp vệ sinh giảm. Vốn đầu tư được hỗ trợ từ Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và VSMT nông thôn ít dần từ năm 2013. Năm 2013, nguồn vốn này hỗ trợ bằng 85% năm 2012; năm 2014 chỉ bằng 70% năm 2013; năm 2015 được thông báo bằng 55% so với năm 2014. Để nâng cao tỉ lệ người dân sử dụng nước sạch, giải pháp trong thời gian tới là: Tập trung nguồn vốn đầu tư cho nước sạch hàng năm từ ngân sách để sử dụng thi công công trình chưa hoàn thành nhằm sớm cung cấp nước cho người dân sử dụng; ưu tiên sửa chữa các công trình nước tập trung bị ảnh hưởng do lũ lụt và các công trình sử dụng nhiều năm đã xuống cấp. Đề nghị các sở, ban, ngành, các tổ chức chính trị- xã hội, đặc biệt là UBND các địa phương tranh thủ nguồn vốn của các chương trình, dự án khác; các tổ chức phi chính phủ và huy động các nguồn lực trong nhân dân để sửa chữa, duy tu, bảo dưỡng và xây mới công trình cấp nước để nâng cao tỉ lệ người dân được dùng nước sạch. Bên cạnh đó tăng cường công tác truyền thông để nâng cao trách nhiệm của cộng đồng dân cư trong vấn đề sử dụng, bảo vệ, bảo dưỡng công trình; kiện toàn Ban quản lý các công trình cấp nước của thôn, xã để quản lý, khai thác các công trình hiệu quả hơn. Trả lời câu hỏi của đại biểu về biên chế của ngành giáo dục còn 522 biên chế, nhưng giáo viên hợp đồng vẫn còn 1.186 người, tại sao có tình trạng trên? - Đồng chí Hồ Ngọc An, Giám đốc Sở Nội vụ cho biết: Hiện nay số lượng học sinh giảm nên biên chế theo định mức của các ngành học, cấp học giảm 529 người, vì vậy tuy còn 522 chỉ tiêu chưa tuyển nhưng các huyện, thị xã, thành phố không tuyển được là do chỉ tiêu theo định mức tại thời điểm hiện nay đã hết, mặc dù về cơ cấu có một số ngành học, môn học còn thiếu. Về hợp đồng: Năm 2013 biên chế chưa tuyển dụng 989 chỉ tiêu, số hợp đồng 1.923 người; năm 2014 thực hiện Nghị quyết 24 của HĐND tỉnh, các cơ quan, đơn vị đã tích cực tuyển dụng và đã tuyển được 467 chỉ tiêu, còn 94 chỉ tiêu so với định mức cho phép chưa tuyển dụng. Tuy nhiên đến nay các huyện, thị xã, thành phố và Sở GD-ĐT đã hợp đồng 1.186 giáo viên, nhân viên, vì các lý do sau: hợp đồng để giải quyết việc thừa, thiếu theo cơ cấu trong từng cấp học, ngành học. Do trường lớp có quy mô nhỏ, số biên chế ít nhưng số môn học nhiều nên để đảm bảo giáo viên đứng lớp đủ theo bộ môn quy định, các trường phải sử dụng 1 biên chế để hợp đồng 2-3 giáo viên. Bên cạnh đó là hợp đồng để dạy thay giáo viên đi học, đau ốm, nghỉ sinh; một số trường hợp khác hợp đồng nhân viên cấp dưỡng cho các trường mầm non… Hiện nay có 35 bác sĩ cử tuyển của đồng bào dân tộc thiểu số đã ra trường nhưng chưa bố trí việc làm, vì sao, giải pháp khắc phục? - Trả lời vấn đề này, đồng chí Giám đốc Sở Nội vụ lý giải: Ngày 27/11/2014 Sở Y tế có tờ trình số 186 gửi Sở Nội vụ về việc xin chỉ tiêu hợp đồng 35 bác sĩ về công tác tại các trạm y tế xã. Sau khi nhận được tờ trình của Sở Y tế, Sở Nội vụ đã có công văn đề nghị Sở Y tế có dự kiến bố trí cụ thể đối với 35 bác sĩ cử tuyển về các trạm y tế xã trước ngày 10/12/2014 để có cơ sở báo cáo UBND tỉnh. Khi Sở Y tế có văn bản dự kiến bố trí cụ thể đối với 35 bác sĩ cử tuyển, Sở Nội vụ sẽ thẩm định, báo cáo UBND tỉnh xem xét, báo cáo Thường trực HĐND tỉnh cho vận dụng thực hiện hợp đồng tạo nguồn đối với 35 bác sĩ về công tác tại trạm y tế xã miền núi theo Nghị quyết 12/2013 của HĐND tỉnh. Qua kết quả kiểm toán các công trình XDCB trong năm 2013 và một số công trình đang xây dựng trong năm 2014 phát hiện sai sót nhiều, nhất là tính sai khối lượng và tính sai đơn giá (cấp tỉnh 13,276 tỉ đồng, cấp huyện 2,984 tỉ đồng), giải pháp nào để chấn chỉnh các sai sót đối với đơn vị tư vấn, đơn vị thẩm định, chủ đầu tư? - Trả lời ý kiến đại biểu về vấn đề này, đồng chí Trần Đức Tâm, Giám đốc Sở KH&ĐT nêu rõ: Về kết quả kiểm toán các công trình XDCB trong năm 2013 và năm 2014, Sở KH&ĐT có ý kiến như sau: Công tác thẩm định, kiểm tra khối lượng, định mức đơn giá của một dự án là quá trình liên quan đến nhiều bước: Phê duyệt nhiệm vụ khảo sát - thiết kế, nghiệm thu khối lượng khảo sát, thẩm định dự án, thẩm tra thiết kế bản vẽ thi công – dự toán, thẩm định thiết kế bản vẽ thi công – dự toán, nghiệm thu khối lượng thi công xây lắp, thẩm tra quyết toán công trình. Nhiệm vụ thẩm định các dự án đầu tư ở cấp tỉnh do SởKH&ĐT thực hiện, ở cấp huyện do Phòng Tài chính-Kế hoạch thực hiện. Việc thẩm định dự án có nhiều nội dung, trong đó có nội dung thẩm định tổng mức đầu tư. Theo quy định tại Điều 4, Thông tư số 04/2010 của Bộ Xây dựng hướng dẫn lập và quản lý chi phí đầu tư xây dựng công trình: Tổng mức đầu tư là chi phí dự tính để thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình, được tính toán và xác định trong giai đoạn lập dự án đầu tư xây dựng công trình phù hợp với nội dung dự án và thiết kế cơ sở. Vì vậy, tổng mức đầu tư bước dự án chỉ mới là dự tính, chưa chính xác. Chỉ khi chuyển sang bước thiết kế chi tiết số liệu mới được tính toán cụ thể, tính chính xác sẽ cao hơn. Quá trình thiết kế chi tiết, các chủ đầu tư trực tiếp giám sát và tổ chức thẩm định. Trước khi tổ chức thẩm định, chủ đầu tư thuê đơn vị tư vấn thẩm tra để kiểm tra sự phù hợp các giải pháp thiết kế, kiểm tra khối lượng, định mức đơn giá để trình chủ đầu tư thẩm định và phê duyệt. Phần khối lượng thực hiện, trước khi thanh toán cho nhà thầu phải được chủ đầu tư và đơn vị giám sát nghiệm thu. Phần khối lượng thực hiện, định mức đơn giá được thẩm tra phê duyệt quyết toán của Hội đồng quyết toán của tỉnh do Sở Tài chính chủ trì để kết thúc dự án. Nêu lên điều này để thấy rằng trách nhiệm trước hết thuộc về các chủ đầu tư và đơn vị tư vấn trong quá trình triển khai thực hiện dự án. Trong đó có nguyên nhân khách quan là do mặt trái của việc phân cấp, phân quyền quá lớn, quá rộng của cấp vĩ mô cho các chủ đầu tư. Qua quá trình thực hiện công tác thanh tra và hoạt động giám sát cộng đồng đã phát hiện tình trạng một số dự án tính thừa, tính sai định mức đơn giá theo quy định; Sở KH&ĐT đã tham mưu và UBND tỉnh đã nhiều lần có văn bản nhắc nhở các chủ đầu tư và đơn vị tư vấn. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường hợp tính thừa, tính sai, quá trình thực hiện nhiệm vụ kiểm toán đã phát hiện và thu hồi. Về giải pháp khắc phục và chấn chỉnh tình trạng này, đó là: Kể từ ngày 1/1/2015, Luật Xây dựng và Luật Đầu tư công có hiệu lực thi hành, theo đó có nhiều điểm quản lý chặt chẽ trong đầu tư như sau: Quy định rõ trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình dự án. Sở KH&ĐT sẽ phối hợp với Sở Xây dựng và các sở chuyên ngành tham mưu UBND tỉnh ban hành quy định về phân công trách nhiệm trong quản lý đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh để thay thế Quyết định 02/2014 của UBND tỉnh. Đồng thời ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để chấn chỉnh có hiệu quả hơn đối với tình trạng này. Việc quản lý công tác khảo sát, thiết kế kỹ thuật cũng như khối lượng công trình được thực hiện chặt chẽ hơn thông qua các sở chuyên ngành thẩm định trước khi chủ đầu tư phê duyệt. Việc quy định về Ban quản lý dự án chuyên ngành do UBND cấp tỉnh và cấp huyện thành lập thay cho Ban quản lý dự án do chủ đầu tư thành lập trước đây. Điều này sẽ nâng cao năng lực và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, hạn chế tính trạng khối lượng cũng như đơn giá dự toán bị tính thừa hoặc tính thiếu. Các dự án đầu tư đều phải được cấp có thẩm quyền quyết định chủ trương đầu tư trước khi phê duyệt về quy mô, tổng vốn đầu tư; công nghệ chính; địa điểm, thời gian, tiến độ thực hiện dự án; cơ chế và giải pháp, chính sách thực hiện. Qua đó sẽ góp phần hạn chế được tình trạng tính thừa, vượt khung. Thời gian tới cần tiếp tục chỉ đạo tăng cường phổ biến, quán triệt, tập huấn các quy định mới trong đầu tư XDCB cho đội ngũ cán bộ quản lý cũng như tư vấn trên địa bàn. Bên cạnh đó, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nhằm hạn chế tình trạng thiếu sót xảy ra. Về giải pháp điều hành vốn XDCB giữa cấp tỉnh và cấp huyện trong việc xử lý nợ vốn vay theo Nghị quyết 02 của Chính phủ thực hiện như thế nào? - Giám đốc Sở KH&ĐT giải trình: Về quan điểm xử lý nợ: Nợ ở cấp nào thì cấp ngân sách đó phải có trách nhiệm xử lý; theo đó, địa phương nào làm chủ đầu tư công trình, dự án có sử dụng nguồn vốn vay theo Nghị quyết 02/CP thì có trách nhiệm bố trí vốn để trả nợ. Về tình hình xử lý nợ: Như đã đề cập ở trên, trong kế hoạch năm 2014, Sở KH&ĐT đã tham mưu UBND tỉnh bố trí 2 đợt là 15,9 tỷ đồng để trả nợ vốn vay theo Nghị quyết 02/CP, còn lại 134,1 tỷ đồng. Kế hoạch năm 2015, do điều kiện nguồn vốn ngân sách địa phương đang gặp nhiều khó khăn, nên UBND tỉnh đã đề nghị HĐND tỉnh đồng ý chủ trương chưa trả nợ vay theo Nghị quyết 02. Mặt khác trong điều kiện các địa phương gặp khó khăn về thu ngân sách thì bên cạnh phải thực hiện đúng theo quan điểm trên, UBND tỉnh đã chỉ đạo rà soát, tạm dừng đối với một số dự án và báo cáo HĐND tỉnh cho phép tái cấu trúc đối với một số dự án cấp thiết, đưa vào đầu tư từ nguồn vốn NSTƯ hỗ trợ trong kế hoạch đầu tư trung hạn 2016-2020 để vừa có nguồn trả nợ, vừa bảo đảm thực hiện hoàn thành các dự án sớm đưa vào sử dụng. HOÀNG NAM BẰNG (lược ghi)