Gặp người cuối cùng bắt được hổ ở Thủy Ba
(QT Xuân) - Làng Thủy Ba xưa (nay thuộc xã Vĩnh Thủy, Vĩnh Linh, Quảng Trị) nằm cạnh khu rừng già rậm rạp, thâm u có nhiều loại thú rừng , nhất là loài hổ sinh sống. Đêm đêm, hổ về bắt trâu, bò và gia súc, gia cầm trong làng.
 |
Nhiều con ranh mãnh, táo tợn còn rình bắt người hoặc bới cả mồ mả để tha xác chết người làng về hang. Để đối phó với nạn hổ hoành hành, người làng Thủy Ba lên rừng tìm cây sót đan thành lưới vây bắt hổ, lâu dần hình thành nên nghề bắt hổ vang danh một thời…Tất cả chỉ còn là huyền tích trong trí nhớ của ông Nguyễn Đăng Hạp, người cuối cùng bắt được hổ hiện còn sống ở làng Thủy Ba. 1. Năm nay đã gần 100 tuổi nhưng trí nhớ của ông vẫn còn minh mẫn lắm. Khi nghe vợ ông nói có khách đến hỏi chuyện bắt hổ ngày xưa, mặc dù sức đã yếu ông vẫn cố ngồi dậy để nói chuyện với khách. Câu đầu tiên ông đã nói ngay vào chuyện bắt hổ: “Mấy chú biết vì răng mà làng Thủy Ba nổi tiếng với nghề bắt hổ. Vì hồi xưa, làng Thủy Ba nằm cạnh rừng rậm nên thú rừng nhiều vô số kể trong đó có loài hổ. Cứ chập choạng tối là cả làng Thủy Ba phải “cửa đóng, then cài” chắc chắn. Già, trẻ, lớn, bé ngồi bó gối trong nhà chứ không ai dám ra đường vì sợ hổ vồ. Đã có nhiều người làng bỏ mạng vì bị hổ vồ rồi tha vào rừng. Mấy ngày sau, người làng mới phát hiện một vài phần thân thể sót lại ở cạnh khe, suối trong rừng. Rồi người làng chết cũng không yên với hổ. Vừa mới mai táng xong buổi chiều đến sáng hôm sau đã thấy ngôi mộ bị đào bới, nham nhở vết chân hổ.
 |
Ông Nguyễn Đăng Hạp kể lại chuyện ngày xưa ông cùng dân làng Thủy Ba vây bắt hổ. |
Nhìn xuống huyệt mộ không thấy xác người chết đâu nữa. Thiệt hại nặng nề nhất vẫn là những người nuôi nhiều trâu, bò trong làng. Cứ đêm nghe tiếng rục rịch, lạo xạo ngoài chuồng trâu, bò, sau đó nghe tiếng hộc lên là y như rằng sáng hôm sau thức dậy ra chuồng kiểm tra trâu, bò đã thấy thiếu mất một vài con. Nhiều gia đình thả trâu, bò cho ăn ở gần cửa rừng, đang cày cấy tự nhiên thấy đàn trâu, bò hoảng loạn bỏ chạy, nhìn về phía cửa rừng thì thấy hổ tha lủng lẵng sau lưng cả con trâu to lớn chạy vào rừng mà chẳng làm gì được. Trong số những con hổ sống trong rừng rậm cạnh làng Thủy Ba từ thuở lập làng, dân làng vẫn truyền tai nhau về con hổ ba chân mà người làng gắn cho nó biết danh là “ông thọt”. Con hổ này rất tinh khôn, đêm nào nó cũng mò về làng rình ở những đoạn đường làng có bụi rậm, cây cối um tùm chờ người đi qua để nhảy ra vồ. Nếu không vồ được người, nó cũng lùng sục, tìm kiếm khắp làng để bắt cho bằng được trâu, bò, lợn tha vào rừng…Đêm nào người làng nghe tiếng than khóc của oan hồn trong sương mù, gió hú là đêm đó “ông thọt” về làng rình mồi. Có lẽ bị hổ hoành hành dữ dội quá nên làng Thủy Ba mới hình thành nên nghề bắt hổ. Chuyện hổ về làng bắt người, trâu, bò là tôi nghe các cụ bô lão trong làng kể lại, chứ đến đời tôi thì hổ cũng đã hiếm gặp. Vài năm mới xuất hiện một con và hổ ít khi bắt người mà thường bắt trâu, bò của dân làng thả rong trong rừng…Riêng tôi, thời trai trẻ từng cùng anh em trai đinh làng Thủy Ba vây bắt khoảng 4-5 con hổ. Dụng cụ để vây bắt hổ là lưới sót, đinh ba, giáo mác…” Để chuẩn bị cho cuộc vây bắt hổ, trước đó cả tháng trời, người làng Thủy Ba phải “cơm đùm, gạo bới” lặn lội vào tận rừng sâu để tìm loại cây sót có thân to như bắp tay. Cây sót mang về được cuộn thành vòng tròn cho vào chảo lớn nấu khoảng một ngày thì mang ra đập cho nát hết lớp vỏ đầy gai bên ngoài. Còn lại thân sót dẻo, dai, bền chắc, được những người thạo nghề đan lát trong làng đan thành lưới. Lưới sót có chiều cao khoảng 3 m và chiều dài 25-30 m. Và mỗi lần vây bắt hổ phải cần đến 20-30 tay lưới sót. 2. “Buổi chiều cuối tháng 2/1943, đang cày ruộng thì nghe tiếng thanh la triệu tập trai đinh ở trong làng, tôi vội vàng bỏ cày chạy về. Về đến nơi đã thấy nhiều người làng đứng xung quanh đống xương trâu bị gặm nham nhở. Hỏi ra mới biết, con trâu của người làng bị con hổ vừa xuất hiện ở khu rừng cạnh làng bắt tha ra suối ăn. Lát sau, các cụ bô lão của làng chống gậy đến. Sau một hồi hội ý, các cụ quyết định phải bắt con hổ này. Một cuộc họp làng để phân công nhiệm vụ cho từng trai đinh trong việc bắt hổ được tiến hành ngay tại sân đình. Ngay chiều hôm đó, làng cử ông cai, ông thập tức tốc vào rừng để xác định chổ ở của con hổ. Ông cai, ông thập thường là người giỏi nghề rừng, am hiểu tường tận tập tính sinh sống, dấu vết để lại của từng loại thú rừng trong đó có loài hổ. Đến gần tối thì ông cai, ông thập trở về báo cho làng biết nơi ở của con hổ.
 |
Ảnh: Iternet |
Lưới sót được mang ra đình làng. Sáng hôm sau, tại đình làng, các cụ bô lão, trai đinh của làng tề tựu đông đủ để làm lễ thượng vọng kính cáo với thổ thần đất đai, rừng núi cho dân làng Thủy Ba bắt được hổ dữ mà không có ai phải bỏ mạng vì bị hổ vồ trong lúc bắt hổ. Sau lễ thượng vọng, tôi cùng trai đinh làng Thủy Ba gánh lưới sót, cầm đinh ba, giáo mác vào rừng. Khi đến nơi được xác định là nơi trú ẩn của con hổ, trai đinh bắt đầu công việc phát quang lùm, bụi để rải lưới. Lưới được bố trí theo hình cánh cung, có hai phần gồm phần cố định và phần di động. Phần lưới cố định luôn được 5-6 trai đinh canh giữ để khi thấy hổ xuất hiện thì báo cho người làng biết mà khép chặt vòng lưới di động. Khi lưới được rải xong, tôi cùng mấy trai đinh của làng đi kiểm tra một vòng xung quanh lưới để néo thật chặt phần lưới nằm phía đưới đất. Một hồi chiêng của ông cai gióng lên sau đó là tiếng chiêng trống, thanh la, tiếng người reo hò vang động cả khu rừng ở phía phần lưới di động. Hoảng hốt, con hổ chạy thục mạng về phía phần lưới cố định vì ở đó không có tiếng người. Khi thấy hổ đã vào phần lưới trung tâm, trai đinh canh lưới bắt đầu gọi to cho mọi người biết hổ đã về phía mình. Tức tốc, phần lười cố địnhh được trai đinh nhổ néo lên, áp chặt con hổ lại. Vòng vây cứ khép dần, dồn con hổ về phía trung tâm lưới cho đến khi nhìn thấy thân hình vằn vện hung dữ của con hổ lồng lộn giữa đám cây rừng. Chốc chốc con hổ lại điên cuồng gầm rú nhào lên phần lưới. Trai đinh làng Thủy Ba với đinh ba, giáo mác trên tay chờ con hổ lao lên lưới là đâm thẳng vào yết hầu, vào thân thể hổ đến khi hổ kiệt sức. Khi con hổ thương tích đầy mình nằm im không còn sức kháng cự nữa thì lưới bắt đầu được hạ xuống và trai đinh làng Thủy Ba lao vào trói chặt con hổ lại rồi cho người về báo với các cụ bô lão. Một con lợn được người làng mang lên nơi bắt được hổ. Đám trai đinh cùng ông cai, ông thập bắt đầu đặt lợn lên mô đất cao thắp hương làm lễ hạ vọng để tạ ơn thổ thần, đất đai, rừng núi đã che chở, giúp người làng Thủy Ba bắt được hổ, trừ được họa. Xong lễ hạ vọng, trai đinh làng Thủy Ba gánh con hổ về đình làng để người làng nhìn thấy tận mắt con hổ vừa bắt được”- Ông Nguyễn Đăng Hạp kể lại chuyện con hổ cuối cùng mà ông cùng dân làng Thủy Ba bắt được. Bài, ảnh: Hoàng Trần Phong