
{title}
{publish}
{head}
QTO - “Gặp lại mẹ sau 44 năm tại Paris, hai mẹ con đều trải qua mấy ngày cùng nhau khóc cười đoàn viên. Có một bữa cơm, mẹ chống đũa nhìn tôi: “Con ơi sao con theo họ làm chi, để gia đình ly tán, phải rời quê cha đất tổ con ơi”. Tiếng kêu của một người mẹ già ly hương làm mọi người chết lặng.Tôi không trả lời mẹ hôm ấy, nhưng cũng từ đấy nảy ra ý định phải kể lại đời mình”.
Cuốn hồi ký “Gánh gánh gồng gồng” của nhà đạo diễn phim tài liệu Xuân Phượng, là câu trả lời với mẹ bằng một cuốn tự truyện nặng cả một đời người của người con khi đã ngoài 90 tuổi. Tác giả vốn xuất thân từ một gia đình trí thức tư sản có cha là quan Đốc học thời Pháp thuộc, khi còn nhỏ đã từng theo học trường Pháp Couvent Oiseaux, đã quyết định vượt quá tất cả đến với cách mạng với “niềm hạnh phúc và sự đắng đót”.
Một câu hỏi không dễ để trả lời cho mẹ hiểu trong một sớm một chiều vì khoảng cách của thời gian, của những định kiến, hoàn cảnh chiến tranh. Đó còn là một thắc mắc của rất nhiều người nước ngoài đã từng đặt ra với bà Xuân Phượng vì sao một trí thức, xuất thân từ gia đình “danh gia vong tộc” đã tự nguyện dấn thân tham gia vào cuộc kháng chiến trường kỳ gian khổ. Vì thế, Gánh gánh gồng gồng không chỉ để trả lời mẹ mà với tất cả mọi người “bên này hay bên kia…”.
“Gánh gánh gồng gồng” ghi lại những giai đoạn“gánh gánh gồng gồng/ gánh sông gánh núi” trong đời của tác giả theo một bố cục trình tự thời gian gồm 27 chương và xen kẽ những tiểu mục.
Từ tháng 6/1945 tham gia đoàn Học sinh cứu quốc thành phố Huế sau khi rời Đà Lạt về học trường Khải Định Huế lúc mới 16 tuổi, tác giả đã trải qua những thăng trầm nghiệt ngã trên bước đường tham gia kháng chiến.
Từ Huế ra Vinh, lên Tây Bắc, trở về Hà Nội, Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh... trải qua những công tác, công việc khác nhau: Làm y tá, ngành quân giới thuộc Ban Chế tạo thuốc nổ, học y khoa, bác sĩ và phiên dịch tiếng Pháp cho khách quốc tế, làm báo ở Việt Bắc, làm đạo diễn phim tài liệu, nhà sưu tập tranh…
Bằng một giọng văn nhẹ nhàng, khúc chiết đầy cảm xúc, hóm hỉnh như thủ thỉ trò chuyện tâm tình dào dạt một tinh thần lạc quan đầy yêu thương. Những câu chuyện như những lát cắt của quá khứ hiện lên với một lối kể chuyện bằng hình ảnh, sống động, liền lạc mênh mang niềm hoài cảm.
Đọc “Gánh gánh gồng gồng” của Xuân Phượng làm người đọc liên tưởng đến tác phẩm “Con đường đau khổ” của nhà văn Nga Alecxây Tolstoi với những trăn trở, day dứt của nhân vật trí thức Teleghin để đến với cách mạng tháng Mười Nga là một hành trình của “con đường đau khổ”.
Với “Gánh gánh gồng gồng” là những ngày tháng gian khổ thiếu thốn trăm bề ăn bờ ngủ bụi ở Quân Y vụ liên khu Bốn trong buổi đầu tham gia kháng chiến; là ở Nha nghiên cứu kỹ thuật chế tạo thuốc nổ đóng trên vùng cao heo hút, giá rét ở Việt Bắc, đặc biệt là lần vượt cạn sinh con một mình lúc nửa đêm ngay trên con thuyền vượt sông Lô...
Là những ngày làm báo vất vả ngược xuôi ở Tuyên Quang; là chuyến gánh gánh gánh gồng con trai 120 km đường rừng từ An toàn khu (ATK) về Hà Nội với lời động viên con, “Gắng lên con ơi! Thế nào cũng có những ngày tốt đẹp hơn”,thật ra là để tự động viên chính mình vì con còn bé dại đâu đã biết gì:”; là cuộc sống kham khổ khi chồng thường xuyên vắng nhà một mình nuôi ba con dại trong một căn phòng tăm tối ở khu tập thể Lê Phụng Hiểu thời bao cấp ở Hà Nội, những năm tháng tản cư trong chiến tranh chống Mỹ…
Nhưng những khó khăn vật chất không bằng sự chịu đựng nỗi đau tinh thần trước thực tế cuộc sống đối với một người trí thức mới là một nỗi đau khốc liệt khi phải đối mặt với những kẻ đạo đức suy đồi, vô cảm, đê hèn, hủ hóa… còn nhức nhối hơn gấp bội phần.
Điều an ủi đối với tác giả, bên cạnh cái ác cái xấu vẫn còn đông đảo những người bạn, những đồng sự, anh em tập thể ở cơ quan đùm bọc, những cán bộ mẫu mực kể cả những người lao động nghèo khổ tử tế đã giúp tác giả giữ được niềm tin yêu với lý tưởng và kiên định sự chọn lựa có tính chung thẩm của chính mình.
Sự trải nghiệm va đập trong những thời khắc nghiệt ngã đã giúp tác giả nhận ra một chân lý :“Tôi chỉ có thể chứng minh rằng trong những lúc gian khổ, thiếu thốn, bế tắc mà tìm được một tấm lòng bạn bè cảm thông điều đó tiếp thêm sức mạnh cho ta tin vào sự tốt đẹp của con người”.
Giọng văn của Xuân Phượng không hề muốn lên gân hay cường điệu ngay cả với những vướng mắc hệ lụy kể cả những lúc gặp phải những hoàn cảnh khó khăn cũng chẳng vì thế mà sinh ra yếm thế.
Những ngày ở Tuyên Quang ở nhờ với người em ruột của chồng chịu bao nhiêu là tủi nhục, khinh rẻ, tác giả đã một lần nhắc lại mà như thể thật khó khăn, nặng lòng: “Để cho nhẹ lòng, và cũng chỉ muốn nhắc lại một lần cuối cùng... Nhưng tôi đã nghẹn ngào, cay đắng khi viết đến những dòng này. Không quên nổi...”.
Tác giả luôn thể hiện bằng một cái nhìn, một thái độ, tâm thế buông bỏ với tấm lòng bao dung, độ lượng. Với một giọng văn tự sự khúc chiết mạch lạc luôn phảng phất một niềm lạc quan tươi sáng để nhìn về phía trước với niềm tin yêu cuộc sống với một tấm lòng nhân hậu.
Sống - với Xuân Phượng luôn thể hiện một tấm lòng yêu thương, nhờ vậy mà bà nhận được sự “đền bù” của người khác mang lại. Bà nhận ra một điều đơn giản: “Mình hết lòng yêu thương ai thì bù lại nhận được rất nhiều. Nên sống tử tế là một cách sống khôn ngoan nhất”.
“Gánh gánh gồng gồng” không chỉ là câu chuyện của số phận một đời người mà còn gắn liền với lịch sử đầy biến động của đất nước đằng đẳng một thời gian dài.
Thông qua cuốn tự truyện với nhiều giai đoạn khác nhau, hiển lộ một Xuân Phượng luôn sống đầy trách nhiệm, hết lòng với công việc nhưng đặc biệt là những ngày tháng 5 năm 1967 đi phiên dịch cho đoàn làm phim “Vĩ tuyến 17 – Chiến tranh nhân dân” do vợ chồng nhà đạo diễn Joris Ivens và Marceline Loridan, người từng nổi tiếng với những cuốn phim tài liệu nói về những cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới.
Chuyến đi vào lũy thép Vĩnh Linh ngày ấy trong thời kỳ chiến tranh ác liệt nhất bên bờ sông tuyến, đoàn làm phim luôn sống và làm việc trong cận kề với cái chết, ngay chính bà Marceline Loridan đã bị thương sau một trận bom.
Những ngày sống trong lòng địa đạo ngột ngạt chết chóc, từ bóng tối cuối đường hầm, bà đã nhìn thấy ánh sáng, ánh sáng của nghệ thuật sáng tạo gắn liền với dân tộc, với nhân loại, với tình người.
Bà bị một sức hút hết sức kỳ lạ từ người đạo diễn già Joris Ivens, người đã bất chấp nguy hiểm kể cả mạng sống để có được những thước phim nóng hổi sinh động, chân thực tỏa sáng phẩm giá của con người Vĩnh Linh - Việt Nam trong chiến tranh nhằm đánh thức lương tâm của nhân loại.
Nhớ lời của Joris Ivens nói với anh em trong đoàn: “Các bạn hiểu tại sao tôi yêu suốt đời cái nghề làm phim chiến trường không? Giữa cái chết và cái sống, chúng ta có hạnh phúc, có may mắn ghi được sự sống ngay cả trong lòng đất ngay cả khi cái chết cận kề”. Xuân Phượng chợt ngộ ra, tận trong sâu thẳm lòng mình đã tiềm ẩn một nỗi đam mê khao khát để làm phim tài liệu.
Bà không giấu được cảm xúc vô bờ khi nghe Joris Ivens mở lời: “Nghề bác sĩ hay phiên dịch rất cần thiết nhưng tìm được một nữ làm phim chiến trường ở Việt Nam không phải dễ dàng. Vì vậy tôi hết lòng, mong muốn Phượng mạnh dạn làm cuộc cách mạng cho đời mình. Hãy đến với công việc mà đất nước đang còn chiến tranh của bạn đang rất cần”.
Có một chi tiết làm xúc động bà về tấm lòng và nhân cách của Ivens là, khi làm phim “Vĩ tuyến 17 - Cuộc chiến tranh nhân dân”, ông đã âm thầm cầm cố ngôi nhà ở Paris cho ngân khố để có kinh phí làm phim mà không muốn cho phía Việt Nam biết vì đất nước các bạn còn nghèo, “không được quyền làm phiền các bạn…”.
Sự việc này mấy chục năm sau khi ông mất, người vợ mới cho bà Xuân Phượng biết. Tác giả “Gánh gánh gồng gồng” sau nhiều đêm suy nghĩ đã quyết định từ bỏ cuộc sống của một bác sĩ vốn đã ổn định để làm lại từ đầu với một cuộc phiêu lưu mới - học và làm đạo diễn phim tài liệu. Khi ấy bà mới 36 tuổi.
Bằng niềm đam mê và khao khát cháy bỏng với điện ảnh, niềm tin vào vào bản thân cùng với quyết tâm học hỏi, trau dồi kiến thức và kinh nghiệm từ những nhà quay nước ngoài trước đó, nguồn lực sáng tạo nơi bà như dòng sông được gặp biển lớn, dâng lên những ngọn sóng tuôn trào.
Bắt tay vào lĩnh vực mới mẻ, dù thuộc loại hậu sinh nhưng Xuân Phượng đã gặt hái những thành quả đáng kể với những bộ phim tài liệu đã giành được những giải thưởng lớn, cao quý ở các LHP quốc tế và trong nước…
“Gánh gánh gồng gồng” là một tác phẩm văn học đích thực bởi thông qua câu chuyện của một đời người đã chuyển tải được một thông điệp hết sức giá trị về sự hòa hợp dân tộc, tạo sự cảm thông chia sẻ và đồng cảm nhằm xóa bỏ những cách ngăn, định kiến “bên này - bên kia”, được viết bởi một thứ ngôn ngữ nhẹ nhàng, ấm áp nỗi cảm hoài. Văn ấy là thứ văn của một trái tim nhân hậu đã sống hết lòng với người khác.
Một cuốn tự truyện đầy xúc động mà người đọc khi cầm lên khó bỏ giở nửa chừng bởi sức hấp dẫn lôi cuốn, được viết ra như từ máu, nước mắt và hơi thở của một đời người chìm nổi bể dâu; là câu trả lời đầy khiêm cung, chân thật tận đáy lòng đủ sức thuyết phục mọi người về sự chọn lựa - Vì sao một trí thức tư sản lại dấn thân vào cuộc kháng chiến giải phóng của dân tộc.
Hồ Sĩ Bình
* Tác phẩm đoạt Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và Giải thưởng của Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh năm 2021.
Đó là chia sẻ của bà Nguyễn Thị Xuân Phượng tại buổi giao lưu trực tiếp giữa các nhân chứng của đoàn làm phim, nhân vật trong phim “Vĩ tuyến 17 - Chiến tranh ...
Khi cầm tập sách “Người gieo hạt và những mùa hoa” đầy đặn xinh xắn trong tay, tôi xúc động và hạnh phúc vô cùng. Tôi thống kê tỉ mỉ, thấy có 68 tác giả tham ...
Đứa bé hơn 1 tuổi do một phụ nữ ẵm trên tay đứng bên ngoài cửa sổ phòng xét xử liên tục khóc đòi mẹ. Bên trong phòng xét xử, khi Hội đồng xét xử tuyên án, bị ...
Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ “Lương y như từ mẫu”, cùng với thái độ làm việc nghiêm túc, khoa học và hết lòng chăm sóc sức khỏe người bệnh, Thạc sĩ, Bác sĩ, ...
(ND) - Sau thời gian tạm lắng do đại dịch Covid-19, làn sóng người xin tị nạn ở các nước Liên hiệp châu Âu (EU) đã tăng trở lại. Tình trạng này làm gia tăng ...
Đêm qua, dường như có tiếng thì thầm vọng về trong giấc ngủ. Như tiếng một dòng sông chậm rãi và thanh bình chảy qua tâm trí. Những thanh âm mơ hồ nhưng con ...
Từ lâu, trên mọi nẻo đường từ thành thị đến nông thôn, chúng ta thường bắt gặp hình ảnh những người phụ nữ với đôi quang gánh hay chiếc xe đạp, xe đẩy bán hàng ...
Hai họa sĩ ký họa tài năng thuộc hai thế hệ khác nhau cùng tạo nên một triển lãm tranh giàu cảm xúc mang tên “Hồi sinh”. Đến với triển lãm này, công chúng yêu ...
QTO - Em về Tháng ba
QTO - Giữ gìn và phát huy giá trị di sản văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng luôn được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Bằng những chủ...
QTO - Từ ngày 9 - 11/12, Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Hướng Hóa tổ chức tập huấn hát dân ca Bru Vân Kiều tại các xã phía Bắc của huyện.
QTO - Sinh năm 1919 và lớn lên ở một làng quê cạnh dòng sông Thạch Hãn là thôn Tam Hữu, xã Triệu Trung, huyện Triệu Phong, Hoàng Cầm - người soạn lời ca...
QTO - Sau nhiều năm nỗ lực nghiên cứu, lập và trình hồ sơ, hệ thống ma nhai (văn tự khắc trên vách đá) tại Danh thắng Ngũ Hành Sơn vừa được Tổ chức Giáo...
QTO - Quê hương Quảng Trị tự hào vì tạo dựng nhiều làng mạc nổi tiếng và sinh ra nhiều người con ưu tú. Một trong những tài năng đó có danh nhân Nguyễn Hữu...
QTO - Anh cùng đoàn cựu chiến binh vừa vượt chặng đường hơn năm trăm cây số từ Hà Nam vào Quảng Trị. Ngoài mục đích tham quan, thì chuyến vào Quảng Trị lần...
QTO - Cuối tháng 11/2022, một tour du lịch độc đáo chính thức được tổ chức. Điểm đến của tour này không phải là một thắng cảnh hay di tích lịch sử mà là...