
{title}
{publish}
{head}
Với diện tích chưa bằng 4 cây số vuông, bao quanh bốn bề sông nước, cù lao Bắc Phước, xã Triệu Phước, huyện Triệu Phong, nổi tiếng về sự trù phú và thịnh vượng. Bởi ở đó, những người lao động của các hợp tác xã đang ngày đêm làm giàu cho mình và phân phối lại công sản cho cộng đồng. Một trong số đó có vợ chồng ông bà Trần Văn Hà và Hoàng Thị Thương.
Ông Trần Văn Hà đánh bắt thủy sản trên đầm Duy Phiên -Ảnh: TRƯỜNG SƠN
Hà thì phải ở... trên sông
Một ngày nắng rát, chúng tôi cùng ông Hà (59 tuổi) và vợ ông là bà Thương (54 tuổi) lênh đênh trên đầm Dưới thuộc làng Duy Phiên, thôn Bắc Phước. Cù lao Bắc Phước nằm giữa sông Thạch Hãn và sông Hiếu, cách biển Cửa Việt tầm 3 km. Nơi này được bao quanh bởi những cánh rừng cây bần chua để chắn sóng. Quanh cù lao là con đê bề thế, rộng 5 m. Dân cù lao gọi là đê quốc gia, có chiều dài khoảng 8 km, mặt đê trải bê tông, rất thuận tiện cho việc đi lại làm việc cũng như dạo chơi.
Đầm Dưới là đầm nước mặn và lợ, rộng tầm 18 ha, ông Hà cho biết sơ thế .
- Tại sao lại là nước lợ và mặn?
Ông Hà cho biết: Đầm nằm sát đê quốc gia, ngoài đê là nước mặn. Mỗi lần thủy triều lên, nước mặn vào đầm. Nước mặn nặng hơn nên ở tầng dưới, phần trên là nước lợ.
Vừa thả lừ bằng đôi tay vạm vỡ, săn chắc, ông Hà vừa kể về cuộc đời sông nước của mình. Vợ ông, bà Thương chống ghe nhưng cũng thi thoảng góp vui bằng những câu chuyện thấm đẫm mồ hôi, nước mắt và hạnh phúc của người lao động ở miền chân sóng.
Ông Hà sinh ra và lớn lên ở cù lao này. Vợ ông quê phía biển, vùng cát Triệu An. Cả hai yêu, cưới nhau đến giờ hơn ba mươi năm nhưng có hai phần ba thời gian ấy bám víu, lênh đênh trên cánh sóng ở xứ phèn mặn này. Ông Hà nói, cưới nhau xong làm đủ nghề nhưng không đủ ăn, phải ở nhà thuê. Có thời gian hai vợ chồng ông lên Hướng Hóa, tận biên giới Lào để làm rẫy, trồng cây, làm thuê nhưng vẫn không đủ sống. “Trong một cuộc trà dư tửu hậu, có người nói đùa: Hà thì phải ở trên sông nước. Lên núi làm gì cho khổ. Thế là mình soi lại đời mình. Có nên tha phương cầu thực như thế này không? Cuối cùng mình đưa vợ con quay về quê, làm cái nghề cha ông từ xưa đã mưu sinh”, ông Hà cho hay.
Bà Thương góp vui bằng câu chuyện, rằng mình tên Thương, có phải ngày xưa ba mẹ đặt Thương này nằm trong chữ “thương hồ”, nghĩa là quanh năm trôi dạt trên sông nước. Chắc cái tên hai vợ chồng vận vào nghề, nên chừ mà bỏ nghề sông nước lên núi, lên rừng là bị trời... đè.
Trở về quê, hai vợ chồng mưu sinh bằng nghề đánh bắt quanh sông. Sau đó bằng sự thôi thúc phải mạnh dạn làm giàu, vợ chồng ông Hà thuê lại đầm của hợp tác xã (HTX). Mỗi ngày đánh bắt, sau khi trừ nộp phí định k ỳ cho HTX, gia đình cũng đủ kiếm cơm qua ngày và vươn lên làm giàu. Từ đó đến nay, gần 20 năm làm nghề đánh bắt trên đầm phá, hộ ông Hà cũng như nhiều gia đình khác đã thoát cảnh nghèo túng, hòa nhập cuộc sống sung túc, hiện đại.
“Năm nay là năm thứ 3, còn chưa đầy 2 tháng nữa là hết hạn giao khoán. Chúng tôi bắt đầu tận thu để trả đầm cho HTX”, ông Hà cho hay.
Cổng chào làng Duy Phiên, cù lao Bắc Phước -Ảnh: TRƯỜNG SƠN
Theo ông Hà, mỗi năm nộp phí đánh bắt cho HTX gần 600 triệu đồng. Từ mùa lụt năm 2020, nguồn lợi thủy sản từ đầm này ít đi, trong đó có nguồn rong câu. Trận lụt đó đã bồi đắp phù sa lấp phần đáy đầm khiến rong câu không sinh trưởng được. “Nếu có thêm nguồn rong câu này, gia đình cũng kiếm thêm khoảng 100 triệu đồng mỗi năm. Rong câu năm nay được giá gấp 2 - 2,5 lần những năm trước nhưng không có bán”, ông Hà than thở.
Cá tôm từ đầm sinh trưởng hoàn toàn tự nhiên. Sau khi nhận giao khoán đầm, gia đình ông Hà đầu tư khoảng 300 - 500 triệu đồng tiền thả giống. Mỗi ngày thu hoạch cá tôm cua, ít thì 2 triệu đồng, nhiều thì 5 - 7 triệu đồng. Đó là nguồn thu do ông tạo ra từ việc thả giống, còn có nguồn thu từ các loại cá biển từ cửa biển đi ngược lên rồi chui vào đầm. Những loại cá này có thể kiếm thêm cả trăm triệu đồng trong mỗi vụ khoán (5 năm).
Nghề thức đêm ngủ ngày
Đến xứ này, nếu để ý sẽ thấy ngư dân dù đàn bà hay đàn ông đều có đôi tay rắn khỏe và to quá cỡ. Còn đôi chân thì nhỏ hơn bình thường. Hỏi ra mới hay nơi này người dân đi lại trên sông nhiều hơn trên bờ, nên đôi tay chèo ghe, phăn lưới, vận động cả ngày còn đôi chân thì được nghỉ. Bởi thế nên tay trở thành... chân.
Vợ chồng ông Hà bắt đầu một ngày làm việc từ 10 giờ đêm đến sáng hôm sau. Và đương nhiên thời gian ngủ chủ yếu vào ban ngày. Từ 10 giờ đêm họ đã chuẩn bị ngư cụ, đi một vòng quanh hồ kiểm tra. Đến 1 giờ sáng bắt đầu thả khoảng 60 cái lừ ở các vùng khác nhau và 15 tay lưới. “Bốn lao động thường trực là hai vợ chồng và 2 đứa con. Hôm nào vớt lừ, phăn lưới mà cá tôm nhiều quá thì gọi người đến hỗ trợ. Tôi có một đội quân sẵn sàng hỗ trợ bất cứ lúc nào”, ông Hà nói.
Cá tôm sau khi thu hoạch được thương lái mua tại chỗ. Ông Hà cho biết thêm, làm cái nghề này, nếu trời yên biển lặng thì an toàn và “có ăn”. Sợ nhất là mùa mưa bão, nước nguồn tràn về làm nguồn lợi thất thoát và nguy hiểm đến tính mạng.
“Cứ nghe mưa to, nước bạc (nước nguồn) đổ về là vợ chồng tôi phải túc trực. Nhớ trận lụt năm 2020, nước tràn đê, tôi đi xe máy xuống đầm, khi gần đến trại canh thì nước chảy xiết, chiếc xe máy toan trôi ra ngoài phía đê. Tôi cự lại và hét lớn trong màn mưa: Thương ơi cứu anh! May vợ kịp níu lại, không thì cả người và xe trôi về biển Cửa Việt”, ông Hà kể.
Ngoài sợ cảnh nước to sóng lớn, bà Thương còn sợ... cua cắn. “Cực lắm chú ơi, cả đời tôi bắt không biết bao nhiêu con cua từ lừ ra, rồi cột cua, cân cua. Thế mà giờ vẫn sợ nó cắn”, bà kể. Nói rồi bà Thương đưa những ngón tay bị thúi móng ra như để minh chứng. Mà đâu chỉ có cua cắn. Cá nâu, cá kình cũng là nỗi sợ hãi nếu sơ ý bị kỳ đâm vào tay.
Làm giàu cho quê hương
Được xem là vùng ốc đảo, chủ yếu làm nghề nông nhưng cơ sở hạ tầng cũng như nhà dân ở đây rất bề thế. Từ cổng làng cho đến đình làng, các thiết chế văn hóa đều khang trang, hoành tráng. Theo Bí thư Chi bộ thôn Bắc Phước Trương Văn Luật, toàn thôn có 352 hộ, gần 1,4 ngàn nhân khẩu. Hiện có 3 HTX gồm Duy Phiên, Dương Xuân và Hà La với 245 xã viên đang quản lý hệ thống đầm, hà và cồn nổi với nguồn lợi thủy sản phong phú. HTX giao khoán cho các xã viên khai thác và nộp phí định kỳ.
Cù lao Bắc Phước được ví như một phá Tam Giang thu nhỏ. Nơi đây có điều kiện tự nhiên sông nước như miền Tây Nam Bộ. Chính sự trù phú này đã tạo cho tính cách con người nơi đây phóng khoáng và hào sảng. Xét về lịch sử, vùng quê này có nguồn gốc từ xứ Thanh Nghệ Tĩnh, ngụ cư sau nhiều lần di dân. Trong đó làng Duy Phiên có lịch sử lâu đời nhất, khoảng 500 năm. Trước đây, cù lao nhỏ bé với điều kiện kinh tế khó khăn nhưng được xem là địa linh nhân kiệt và vùng đất cách mạng. Nơi đây có nhiều người làm lãnh đạo tỉnh và trí thức nổi tiếng. |
Ông Nguyễn Văn Thuẩn, Trưởng thôn Bắc Phước cho biết, gia đình ông Hà là một trong những xã viên khai thác đầm Duy Phiên. Ngoài làm giàu cho chính mình, giá trị công sản gia tăng phục vụ đầu tư các công trình phúc lợi và một phần trích cho các hộ dân. Hiện làng Duy Phiên có 3 đầm nước ngọt, lợ và mặn có diện tích gần 40 ha với giá trị giao khoán khoảng 1,6 tỉ đồng/năm. Làng Hà La có 1 đồng rộng 27 ha, giao khoán khoảng 1,7 tỉ đồng/năm. Riêng làng Dương Xuân diện tích đầm nhỏ hơn nhưng cũng thu được từ cho thuê khai thác nguồn lợi tầm 300 triệu đồng/năm.
Nguồn tiền thu được từ việc giao khoán khai thác nguồn lợi từ các HTX sẽ được tái đầu tư các công trình của thôn như hệ thống kênh mương nội đồng, đường nội thôn, các công trình khác như đình làng, cổng làng...
Dẫn chúng tôi đi một vòng quanh làng Duy Phiên, anh Trương Duy Tuấn giới thiệu về chiếc cổng làng to nhất nhì tỉnh Quảng Trị. Anh nói về đường sá, về các công trình mới xây của thôn. “Hiện hội trường thôn đang xây dựng với dự toán tầm 1,3 tỉ đồng nhưng khả năng cao hơn, khoảng 1,4 tỉ đồng vì nguồn lực đang còn. Xây dựng đường sá và nhiều công trình hoành tráng như thế nhưng người dân chúng tôi không nộp đồng nào. Tất cả đều được lấy từ... đầm, hà”, anh Tuấn chia sẻ. Anh Tuấn không quên khoe về sự trù phú của làng khi Tết vừa rồi, mỗi khẩu được chia công sản ăn tết 1,5 triệu đồng.
Theo trưởng thôn Nguyễn Văn Thuẩn, công sản chia bằng tiền mặt tặng các gia đình ăn tết làng nào cũng có. Như làng Hà La, năm vừa rồi người trên 18 tuổi nhận được 1 triệu đồng, dưới 18 tuổi được 500 ngàn đồng; còn làng Dương Xuân, mỗi nhân khẩu được nhận 700 ngàn đồng.
Ở cù lao này, hàng trăm xã viên đang ngày đêm bám con sóng để làm giàu cho chính mình, làm giàu cho quê hương. Họ lặng lẽ sống, lao động cần cù và hăng say. Như vợ chồng ông Hà, bà Thương là một điển hình. Khi tôi hỏi bà Thương vì sao chưa mua ô tô đi cho tiện? Bà trả lời như đùa: “Có chiếc ô tô chạy trên mặt nước thì tui mua ngay”. Câu trả lời này quá chính xác với những thân phận bám mặt nước làm giàu như bà .
Yên Mã Sơn
QTO - Với điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi, thời gian qua, ngành nông nghiệp và các địa phương đã tập trung phát triển đa dạng nhiều loại cây trồng,...
QTO - Năm 2024, hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh có sự phục hồi mạnh mẽ sau COVID -19 với con số ấn tượng là đón hơn 3 triệu lượt khách du lịch, trong...
QTO - Với mục tiêu trở thành huyện trọng điểm về công nghiệp của tỉnh, huyện Hải Lăng đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, trong đó trọng tâm là chuyển...
QTO - Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, thị trấn đạt chuẩn đô thị loại V và cơ bản đạt loại IV vào năm 2030, trong thời gian qua, thị trấn Diên Sanh,...
QTO - Ngày 19/3/1975, Hải Lăng huyện cuối cùng của tỉnh Quảng Trị được giải phóng. Trải qua 50 năm kiến tạo và dựng xây đến nay huyện đã đạt được những...
QTO - Là huyện duy nhất của tỉnh Quảng Trị trồng cà phê, Hướng Hóa hội tụ nhiều ưu thế về khí hậu, thổ nhưỡng, đặc biệt là sự chênh lệch lớn về nhiệt độ...
QTO - Hưởng ứng sự kiện Giờ Trái đất năm 2025, Bộ Công thương chọn chủ đề “Chuyển dịch xanh - Tương lai xanh” nhằm gửi đến cộng đồng thông điệp không chỉ...
QTO - Với đức tính cần cù, chịu thương, chịu khó học hỏi cách thức sản xuất mới, chị Nguyễn Thị Thanh, hội viên Chi hội Phụ nữ thôn Ngô Xá Đông, xã Triệu...
QTO - Thời gian qua, cấp ủy, chính quyền huyện Hải Lăng triển khai đồng bộ các giải pháp để thu hút doanh nghiệp đầu tư vào địa phương, góp phần tăng...
QTO - Vùng gò đồi huyện Hải Lăng có tổng diện tích đất tự nhiên trên 30.000 ha, chủ yếu ở 5 xã Hải Phú, Hải Lâm, Hải Trường, Hải Sơn và Hải Chánh. Phát huy...
QTO - Sau hơn 13 năm thực hiện Chương trình MTQG xây dựng NTM, với sự quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị, sự đồng lòng, nhất trí của các tầng lớp nhân...
QTO - Sau gần 35 năm lập lại huyện Hải Lăng, bước vào thời kỳ hội nhập và phát triển, Hải Lăng hiện nay đã có bước phát triển tích cực. Vì vậy, trong đồ án...