Trần Mai Hưởng- Nhà báo từng đi qua một thời chiến tranh
(QT) - Trong sự nghiệp báo chí cách mạng, Trần Mai Hưởng đã từng bước kiên trì phấn đấu, được phân công đảm nhiệm đến chức vụ cao: Bí thư Ban cán sự - Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam. Nhưng rồi, khi tuổi đời chạm đến cái ngưỡng 60, anh nghỉ hưu vào cuối năm 2011, tuy sức khỏe còn tốt, khả năng nghề nghiệp còn dồi dào. Mấy năm trước, thỉnh thoảng gặp nhau trong các cuộc họp báo chí, tôi giật mình khi thấy tóc anh đã bạc khá nhiều, nét mặt càng trầm tư khiến tính tình Trần Mai Hưởng càng nhỏ nhẹ, ít nói. Thời gian đi nhanh quá. Mới đó mà đã bốn mươi năm.
 |
Phóng viên chiến trường Đoàn Công Tính tại căn cứ Tân Lâm, Quảng Trị ngày 2/4/1972 - Ảnh: TL |
Bốn mươi năm trước, anh là phóng viên Việt Nam Thông tấn xã (tức Thông tấn xã Việt Nam ngày nay), thường trú tại Phân xã Hà Tây khi mới 20 tuổi. Xuân - hè 1972, trên chiến trường miền Nam, quân ta mở ba chiến dịch lớn trên ba hướng: Đường 13 ở miền Đông Nam bộ, Kon Tum trên Tây Nguyên và Quảng Trị ở mặt trận Trị - Thiên. Trần Mai Hưởng được Tổng xã điều động từ Phân xã Hà Tây vào Phân xã Vĩnh Linh, sẵn sàng phục vụ mặt trận Quảng Trị. Vĩnh Linh nằm dọc sông Bến Hải, có cầu Hiền Lương nối hai bờ Bắc – Nam, là cái “túi” hứng bom và đạn pháo của Mỹ - ngụy suốt từ năm 1965 đến ngày đất nước thống nhất. Từ Vĩnh Linh nhìn qua bờ Nam sông Bến Hải, hàng rào điện tử Mc.Namara hiện ra đen ngòm với chằng chịt dây thép gai, dày đặc bom mìn và đồn bốt địch. Đằng sau hàng rào điện tử ấy là trận địa pháo các loại của địch giăng ra trên các căn cứ: Quán Ngang, Cồn Tiên, Dốc Miếu, Cam Lộ và Thành Cổ Quảng Trị, sẵn sàng nhả đạn ra Vĩnh Linh bất cứ lúc nào. Trần Mai Hưởng cùng các phóng viên thường trú, công nhân truyền tin sống trong địa đạo Vĩnh Linh, sẵn sàng chờ giờ G sắp đến. Cuộc sống chiến trường gian khổ, căng thẳng, địa hình hoạt động rất mới, khác xa hậu phương, kinh nghiệm nghề nghiệp còn hạn chế, tuổi đời còn trẻ chưa từng trải nhiều là một thách thức lớn đối với anh, một phóng viên trẻ, ở tuổi 20. Nhưng ở cái thời điểm giờ G. ấy đã giúp Trần Mai Hưởng có thời gian học hỏi kinh nghiệm của các phóng viên đã vào chiến trường từ trước, luồn qua địa đạo và giao thông hào tìm hiểu địa bàn Vĩnh Linh, chiếu theo bản đồ chiến lệ để tìm hiểu địa hình phía nam sông Bến Hải, viết những tin ngắn về Tổng xã để tập dượt cách viết tin, bài về chiến sự ở mặt trận. Thế rồi, giờ G đã đến. Ngày 30/3/1972, quân giải phóng Quảng Trị nổ sung tấn công tuyến phòng ngự bên ngoài của địch, phá vỡ hệ thống phòng thủ đường số 9, giải phóng hoàn toàn hai huyện Gio Linh, Cam Lộ, áp sát vòng vây, uy hiếp thị xã Đông Hà, căn cứ Ái Tử, thị xã Quảng Trị, La Vang, dồn lực lượng gây sức ép đối với quân địch ở phía tây nam thành phố Huế. Cùng với cả phân xã đưa tin tổng hợp về các mũi nổi dậy của quần chúng để phối hợp với tin chiến sự của thông tấn quân sự, Trần Mai Hưởng đã có ghi nhanh về hào khí ra quân trận đầu thắng lớn của quân dân Quảng Trị từ rừng núi phía tây đổ xuống đồng bằng. Ngày 27/4/1972, bằng đợt tiến công như vũ bão trong đợt hai của quân dân Quảng Trị, cụm phòng thủ ở Đông Hà – Ái Tử - La Vang của địch bị tan hoang, khu vực Động Tranh bị tan tác. Cả Trung đoàn 56 ngụy kéo cờ trắng đầu hàng. Quân giải phóng dùng ô tô địch bỏ lại và dùng xe Honda truy kích địch đến bờ bắc sông Mỹ Chánh. Trước chiến thắng giải phóng tỉnh Quảng Trị, Trần Mai Hưởng cùng các anh Lam Thanh, Phạm Hoạt, Xuân Lâm, Phạm Tài Nguyên phối hợp đưa tin từng ngày, rất kịp thời về cả hai mũi tiến công và nổi dậy. Với tay bút trẻ trung, nhanh nhạy, anh đã viết một bài ghi nhanh điện về Tổng xã, mô tả chiến thắng lớn của quân dân Quảng Trị với sự phối hợp nhịp nhàng giữa mũi tiến công như thác đổ của quân giải phóng và mũi nổi dậy như vũ bão của lực lượng quần chúng ở các địa phương. Cùng thời gian đó, những ngày tạm thời yên bình của làng quê Quảng Trị đã giúp Trần Mai Hưởng có thời gian đi sâu vào quần chúng nhân dân, khai thác sâu một số nhân vật để viết nên bút ký báo chí có tựa đề “Đất quê hương”. Bài bút ký mô tả khá kỹ về chị Toàn, một cán bộ của tỉnh ủy về quê hương Triệu Phong giải phóng mà lòng bầm tím hờn căm trước bao nhiêu tội ác của quân thù, nước mắt dàn dụa khi thấy đồn giặc đã bị san phẳng. Bài bút ký đã được Báo Nhân Dân đăng gần hết trang 3 và một số tờ báo khác đăng lại . Nhưng rồi, ngày bình yên của Quảng Trị không được bao lâu. Kẻ thù đã dùng đủ các sắc lính và máy bay, pháo binh quyết phản kích, tái chiếm Quảng Trị với đủ các thủ đoạn nham hiểm, gây biết bao đau thương, tang tóc cho đồng bào và chiến sĩ ta. Trong thời điểm ác liệt ấy, khi là phóng viên quân sự ở mặt trận Quảng Trị, tôi vẫn thấy Trần Mai Hưởng cùng các đồng nghiệp ở Phân xã Vĩnh Linh bám sát trận địa và làng xã Quảng Trị để đưa tin tức kịp thời, tố cáo tội ác của địch, phản ánh tinh thần bám trụ kiên cường của quân và dân Quảng Trị trong cuộc chiến đấu bảo vệ vùng giải phóng. Anh cứ đi và viết trong những ngày tháng ác liệt đó cho đến khi Hiệp định Pa-ri được ký kết (27/1/1973), trong thời điểm trao trả tù binh sau Hiệp định Pa-ri và bảo vệ vùng giải phóng ở tuyến giáp ranh Thạch Hãn, Nhan Biều, Hải Lăng… Ngày 11/3/1975, quân ta tiến công Buôn Ma Thuột, sau đó địch rút khỏi Tây Nguyên. Ở Quảng Trị, các sắc lính ngụy quyền tháo chạy theo đường số 1 về Huế. Quân đoàn 2 và quân dân Trị - Thiên tiến công Thừa Thiên – Huế. Ngày 25/3/1975, trên đường vào thành phố Huế, tôi đã thấy Đài Phát thanh Giải phóng và Đài Tiếng nói Việt Nam phát bài ghi nhanh: “Huế, ngày đầu giải phóng” của Trần Mai Hưởng. Thì ra, trên đường theo các cánh quân vào Huế anh đã tích lũy được tư liệu và chi tiết để khi vào nội đô, bổ sung được chi tiết về lòng dân đón quân giải phóng và hoàn chỉnh bài viết, điện về Hà Nội. Ngày đó, đi dọc các tỉnh miền Trung để vào mặt trận, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh, qua Đài Phát thanh Giải phóng và Đài Tiếng nói Việt Nam, tôi vẫn được nghe bài của Trần Mai Hưởng phản ánh về những vùng quê mới giải phóng. Anh viết nhanh, sắc sảo, có tính tổng hợp cao và tận dụng được lợi thế của máy Tê - lê - típ đi cùng để chuyển tin, bài kịp thời về Hà Nội, được các cơ quan báo chí dùng ngay. Thế mạnh đó đã giúp Trần Mai Hưởng cùng các phóng viên Thông tấn quân sự của Tổng cục Chính trị và mũi thọc sâu của Thông tấn xã Việt Nam vào dinh Độc Lập sớm nhất, đưa tin chiến thắng kịp thời về sự kiện đầu hàng vô điều kiện của Tổng thống ngụy quyền Dương Văn Minh và nội các chính quyền Sài Gòn trước đại diện quân giải phóng trong buổi trưa 30/4/1975 lịch sử. Sau ngày đất nước thống nhất, Trần Mai Hưởng vẫn kiên nhẫn với sự mê say nghề nghiệp. Với chức vụ Tổng Biên tập Báo Vietnamnews và Tổng Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, anh đã đi bằng chính sức mình, bằng nghị lực, trí tuệ và cái tâm nghề nghiệp. Tuy vậy, khi nhắc đến Trần Mai Hưởng, tôi vẫn quý mến hơn hết phong thái làm báo của anh trong những năm tháng chiến tranh ác liệt. KHÁNH TOÀN (Nguyên phóng viên quân sự, Đài Phát thanh Giải phóng)