Cập nhật:  GMT+7

Phóng sự Việt Nam thời kỳ sau đổi mới từ 1986 đến nay

Trong đời sống báo chí, văn học Việt Nam, phóng sự là thể loại tân văn, sản phẩm của công cuộc hiện đại hoá văn học, là điểm nhấn quan trọng trong tiến trình phát triển của văn học hiện đại ở thập niên thứ ba của thế kỷ XX. Nó là sản phẩm của quá trình giao lưu, ảnh hưởng, tiếp xúc với văn hoá, văn học phương Tây, trực tiếp là văn hoá, văn học Pháp, của văn học, văn hoá Việt Nam. Nó là kết quả của sự nối tiếp và hoàn thiện của một loại hình văn học truyền thống có tính nguyên hợp văn - sử gồm các thể ký ghi chép, ký và ký sự trong văn học trung đại Việt Nam.

Tình hình phóng sự các giai đoạn trước đây

Để tìm hiểu dòng chảy của phóng sự Việt Nam, chúng ta thử đi ngược về báo chí Việt Nam thời Pháp thuộc. Báo chí du nhập vào Việt Nam cùng với quá trình khai thác và xâm chiếm thuộc địa của thực dân Pháp. Cụ thể là giai đoạn chữ Quốc ngữ bắt đầu chiếm lĩnh thay thế chữ Hán, chữ Nôm.

Báo chí xuất hiện ở Nam Kỳ vào những năm 1860, sau đó báo chí đã nhanh chóng phát triển ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Với hàng trăm tờ báo bằng tiếng Pháp, chữ Hán và chữ Quốc ngữ ra đời trước năm 1945, báo chí xuất hiện kéo theo sự phát triển của nhiều ngành nghề gắn liền với lĩnh vực này như sản xuất giấy, in ấn, phát hành, phân phối báo chí và quảng cáo.

Phóng sự Việt Nam thời kỳ sau đổi mới từ 1986 đến nay

Nhà báo Huỳnh Dũng Nhân chia sẻ kinh nghiệm, kỹ năng viết phóng sự với cán bộ, phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo chí tỉnh Quảng Trị - Ảnh: Minh Đức

Ở Việt Nam, từ phóng sự xuất hiện lần đầu tiên trong Việt Nam tự điển của hội Khai trí tiến đức xuất bản năm 1931, được giải nghĩa: “Phóng sự: người hỏi tin cho nhà báo”. Trong cuốn Hán Việt từ điển do Đào Duy Anh biên soạn xuất bản lần đầu tiên vào năm 1932, phóng sự được giải thích rằng: Phóng có nghĩa là bắt chước, phỏng theo; sự có nghĩa là sự việc. Tổng hợp lại phóng sự có nghĩa là phỏng theo sự việc.

Ngay sau khi tác phẩm “Tôi kéo xe” của Tam Lang ra đời (1932) cùng với thơ mới, tiểu thuyết, phóng sự đã phát triển rất mạnh mẽ, mang giá trị thẩm mỹ cao. Nhiều nhà văn, nhà báo viết phóng sự đã tự coi phóng sự của mình là tiểu thuyết - phóng sự hay phóng sự - tiểu thuyết như Nguyễn Đình Lạp, Lộng Chương, Vũ Trọng Phụng... với cách miêu tả sự việc, sự kiện xuyên suốt cuộc đời hoặc một quãng đời của nhân vật.

Mặc dù vậy, cũng chưa có sự bàn luận, tranh luận về thể tài này với tư cách là một thể loại như thơ mới, tiểu thuyết lúc bấy giờ; hoặc cũng chưa được nhắc đến trong các cuộc tranh luận văn nghệ.

Theo tài liệu được công bố trong Vũ Trọng Phụng, con người và tác phẩm của Nguyễn Hoành Khung và Lại Nguyên Ân (Nxb Hội nhà văn, H.1994) thì Vũ Trọng Phụng là người trực tiếp viết phóng sự duy nhất lúc đó có quan niệm rõ ràng về thể loại phóng sự: “Tiểu thuyết và phóng sự là hai thể loại văn gần nhau.

Phóng sự là một thiên chuyện kể với cơ sở là những điều mà nhà báo đã từng mắt thấy tai nghe, trừ phi là một thiên “phóng sự trong buồng”, nhà báo nghe người ta kể lại cái mà mình chưa biết bằng tai và bằng mắt”.

Đến năm 1942, khi phóng sự Việt Nam đã phát triển tới đỉnh cao thì giới nghiên cứu, phê bình mới dành cho nó sự quan tâm thích đáng. Tiêu biểu cho cách đánh giá ở giai đoạn này về phóng sự, phải kể đến nhà nghiên cứu, phê bình Vũ Ngọc Phan.

Trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã quan niệm rằng: “Lối văn này hoàn toàn mới ở nước ta, và cũng như ở các nước, nó là con đầu lòng của nghề viết báo... Phóng sự là thăm dò lấy việc mà ghi... Phóng sự là ký sự, là có lời phẩm bình, phóng sự ghi những điều mắt thấy tai nghe, có tính cách thời sự và có chỉ trích... Không có lối văn nào giúp ích cho việc cải cách, cho nhà đương chức, nhà pháp luật và nhà xã hội học bằng các thiên phóng sự”.

Nếu như năm 1865, cả nước ta mới chỉ có một tờ Gia Định báo, thì đến đầu năm 1925 đã có 35 tờ báo. Bảy năm sau, năm 1932, con số này tăng vọt lên tới 132 tờ. Thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936 - 1939), báo chí càng phát triển rầm rộ và thể loại phóng sự bằng nhiều con đường du nhập đã dần có mặt, trở nên quen thuộc trong làng văn làng báo, được nhiều tác giả có tâm có tài học tập và vận dụng. Và một số tác giả đã thành danh ở thể phóng sự còn mới mẻ này.

Chặng đương lịch sử 15 năm (1930 - 1945) được các nhà nghiên cứu ghi nhận là thời kỳ phóng sự phát triển, để lại dấu ấn khó phai mờ, là sự đột biến về chất của hàng loạt tác phẩm phóng sự có khả năng phản ánh, bao quát khá toàn diện về màu sắc, diện mạo đời sống xã hội nước ta lúc bấy giờ.

Cùng với một số nhà báo nổi lên trong đó có Trọng Lang, nhà văn - nhà báo Vũ Trọng Phụng là một cây bút bén duyên và sớm có những tác phẩm để đời với thể phóng sự. Tác giả Trọng Lang đã cho xuất bản 2 cuốn “Làm dân” (1938) và “Những đứa trẻ” (1944). Còn Vũ Trọng Phụng, chỉ trong vòng 6 năm (từ 1933 đến 1938) đã để lại 7 thiên phóng sự: “Cạm bẫy người” (1933), “Kỹ nghệ lấy Tây” (1934), “Dân biểu và dân biểu” (1935), “Cơm thầy cơm cô” (1936), “Vẽ nhọ bôi hề” (1936), “Lục sì” (1937), “Một huyện ăn tết” (1938). Và cả 7 thiên phóng sự này, đương thời đều gây những tiếng vang lớn.

Viết lời tựa cho tác phẩm “Kỹ nghệ lấy Tây” (NXB Phương Đông, 1936), Phùng Tất Đắc hết lời ca tụng: “Cuốn sách này tôi không muốn chỉ coi là một thiên phóng sự. Tôi muốn đặt nó vào hàng những công trình có ảnh hưởng xa rộng hơn, những công trình có thể vạch phương hướng cho văn nghệ, những công trình giúp được tài liệu cho đời sau khảo xét về thời buổi nay!”.

Phóng sự Việt Nam thời kỳ sau đổi mới từ 1986 đến nay

Tuyển tập phóng sự của Vũ Trọng Phụng - NXB Văn học - Ảnh: T.L

Trong loạt phóng sự vừa nêu, đề tài thành thị chiếm tỉ lệ đa số, áp đảo, bởi đó là sở trường của nhà văn Vũ Trọng Phụng, vừa phản ánh một hiện thực khách quan của xã hội - buổi giao thời của chế độ thực dân phong kiến, thành thị xuất hiện và nhanh chóng biến thành nơi tích tụ, điểm nóng, một đề tài rất phù hợp với thể phóng sự.

Tại đây, ông đã bắt “đúng mạch” của con người, xã hội, nhân tình thế thái để từ đó góp tiếng nói đặc sắc qua những phóng sự tâm huyết, trở thành “Ông vua phóng sự trên đất Bắc” - theo cách gọi vinh danh đương thời của Phùng Tất Đắc.

Đọc Vũ Trọng Phụng có thể thấy tác phẩm của ông có ba góc độ nổi bật, đó là phê phán xã hội, đề cập đến cái dâm và xen lẫn tính hài. Nếu cần nói sâu hơn thì phải nhắc đến bộ ba cây bút phóng sự họ Vũ nổi bật thời đó là: Tam Lang Vũ Đình Chí, Vũ Bằng và Vũ Trọng Phụng, những người đặt nền móng cho loại phóng sự xã hội giàu chất văn chương và với phong cách dấn thân khác hẳn với những cây bút chỉ ngồi văn phòng tháp ngà ...

Nhìn chung, phóng sự giai đoạn này giàu chất văn chương, gần thể loại ký văn học vì các tác giả đa số cũng là nhà văn viết báo. Họ phải sống trong cả hai môi trường báo chí và văn học để ngòi bút được vẫy vùng đồng thời để mưu sinh trong một chế độ phụ thuộc vào sự đô hộ của chính quyền lúc đó.

Trước năm 1975, tại miền Nam Việt Nam có một số tờ báo và tác giả phóng sự nổi bật, có rất nhiều tờ báo và tác giả phóng sự đã góp phần làm phong phú nền báo chí miền Nam trước năm 1975. Nhưng có những tờ báo có tiếng nói chống chế độ do Mỹ lập ra, cũng có những tờ báo có những phóng sự chuyên sâu giải trí, ru ngủ, mị dân...

Điều đáng trân trọng là ngay tại miền Nam trước năm 1975 lực lượng báo chí cách mạng được thành lập và tồn tại ngay tại Sài Gòn và chiến trường miền Nam do Trung ương Cục miền Nam và Bộ Chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam trực tiếp chỉ đạo như: Báo Nhân Dân miền Nam, Báo Giải phóng, Đài Phát thanh Giải phóng, Thông tấn xã Giải phóng, Báo Quân Giải phóng, Văn nghệ Giải phóng... tất cả đã đấu tranh đầy quyết liệt, cam go từng ngày, từng tháng ở miền Nam Việt Nam.

Đội ngũ nhà báo thời kỳ này thật sự là những nhà báo chiến sĩ, vừa cầm bút vừa cầm súng, trực tiếp có mặt tại chiến trường, có nhiều tác phẩm ghi chép, ghi nhanh, bút ký nói lên tinh thần chiến đấu anh dũng của quân và dân ta. Nhiều tác phẩm xuất sắc thấm máu, vượt qua ranh giới của định nghĩa về thể loại, thật sự là một chặng đường báo chí cầm súng cầm bút đáng được nghiên cứu sâu hơn.

Phóng sự thời kỳ đổi mới từ 1986 đến nay

Sau khi thống nhất đất nước năm 1975, báo chí nước ta đi vào một giai đoạn có nhiều thay đổi, từ cách làm báo chủ đạo là thông tin tuyên truyền giáo dục các vấn đề chính trị, kinh tế xã hội có thêm những mảng nội dung giáo dục, giải trí gần gũi đời sống và mở rộng các mảng thông tin quốc tế, đấu tranh chống tiêu cực...Nhưng trong 10 năm (1975-1985) thật sự báo chí vẫn còn đang thích nghi với một tình hình mới của một đất nước vừa trải qua chiến tranh đang xây dựng lại “đàng hoàng hơn to đẹp hơn”.

Chỉ đến sau đổi mới 1986, cùng với những cuộc đổi mới mạnh mẽ trong tư duy, trong cải cách và điều hành đất nước, nhất là yếu tố con người thì báo chí thật sự đã tham gia, đồng hành, trở thành một lực lượng xung kích, tự thân thay đổi và có những đóng góp lớn để tạo ra một chân dung mới, thực lực mới của nền báo chí cách mạng Việt Nam.

Phóng sự Việt Nam thời kỳ sau đổi mới từ 1986 đến nay

Phóng sự trên báo Người Lao Động - Ảnh Quang Liêm

Đại hội VI của Đảng năm 1986 đề ra phải đổi mới toàn diện. Cùng thời điểm này, trên báo- đài xuất hiện các bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với bút danh NVL, được hiểu như ba chữ viết tắt tên của Tổng Bí thư, nhưng cũng được hiểu là “Nói và làm” với tựa đề như một lời kêu gọi, một mệnh lệnh đổi mới là “Những việc cần làm ngay”. Đây chính là những tín hiệu xanh cho việc đổi mới của đất nước cũng như của báo chí. Đổi mới phải toàn diện và đồng bộ, từ kinh tế, chính trị đến tổ chức, tư tưởng, văn hóa, gắn với đổi mới chính trị, trọng tâm là đổi mới kinh tế.

Trong lĩnh vực báo chí, Đảng ta cũng nhấn mạnh: Chức năng căn bản của báo chí là cung cấp thông tin, kiến thức, bình luận, phản biện chính sách xã hội ngày càng được thể hiện rõ trên các trang báo, chương trình phát thanh, truyền hình của nước ta. Nội dung thông tin của báo chí ngày càng phong phú, hiệu quả, hình thức đẹp, sinh động và hấp dẫn.

Từ đó, các cơ quan lãnh đạo, quản lý báo chí cũng như toàn xã hội nhận thức đúng đắn hơn vị trí, vai trò của báo chí là tấm gương phản ánh tình hình mọi mặt của đời sống xã hội, nhà báo là thư ký của thời đại. Báo chí được coi là một ngành khoa học, được đối xử khoa học, người làm báo được đào tạo cơ bản, có kiến thức rộng và độc lập viết ra được các tác phẩm báo chí xứng đáng. Đây chính là một môi trường tạo điều kiện cho thể loại phóng sự điều tra phát triển mạnh mẽ, nhất là khi con người là chủ thể của các tác phẩm báo chí.

Phóng sự vốn có thế mạnh là độ dài nên có đủ điều kiện nói sâu hơn về thân phận, hoàn cảnh con người và những vấn đề nhân văn. Nếu phóng viên lấy tin tức là những người thường xuyên đứng ở mũi một con tàu để phát hiện ra nhanh nhất, sớm nhất những gì xảy ra thì người viết phóng sự có thể lùi sau một chút ở thân tàu, để có thể chiêm nghiệm sâu hơn, kỹ hơn, đầy đủ hơn về một sự việc nào đó mà người đưa tin chưa thể nói hết.

Đặc trưng nổi bật của phóng sự báo chí Việt Nam sau thời kỳ đổi mới 1986, đó là xuất hiện tính dấn thân. Phóng sự tập trung vào các vấn đề nóng bỏng, gai góc của xã hội, thể hiện tinh thần đấu tranh, phản biện, dám nói thẳng, nói thật của báo chí. Phóng sự chú trọng phản ánh hiện thực khách quan, chân thực, đa chiều, không né tránh, tô hồng, giúp công chúng có cái nhìn đầy đủ, sâu sắc về bản chất sự việc.

Phóng sự đề cập đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, giải trí, kiến thức cuộc sống...với nhiều góc độ, cách tiếp cận khác nhau. Phóng sự sử dụng ngôn ngữ báo chí đa dạng, phong phú, giàu hình ảnh, âm thanh, kết hợp nhiều phương tiện, thủ pháp để tăng tính hấp dẫn, sinh động.

Giai đoạn bắt đầu đổi mới có thể nhắc đến các phóng sự sau: Năm 1986, nổi bật là phóng sự “Vua lốp” của Trần Huy Quang trên báo Văn Nghệ. “Vua lốp”, hay còn gọi là “Vua dép lốp”, tên thật là Nguyễn Văn Chẩn (1926 - 2013) là một người có tiếng vì tài năng và sự tháo vát, gây dựng nên một tài sản lớn từ hai bàn tay trắng, nhưng cuộc đời gặp phải nhiều oan trái, tù tội, một “bi kịch lớn”.

Ông chỉ mất tổng cộng chừng chục năm trời để gây dựng nên sự nghiệp, nhưng lại mất tới gần hai mươi năm để đi kiện đòi lại tài sản của mình bị tịch thu và đòi lại công lý cho mình. Một bài phóng sự khác là “Cái đêm hôm ấy... đêm gì?” của nhà văn Phùng Gia Lộc trong giai đoạn đổi mới tại Việt Nam. Tác phẩm được đăng lần đầu trên báo Văn Nghệ ngày 23/1/1988. Đây là bài viết kể về những “cường hào mới” ở nông thôn, tức những cán bộ công chức sở tại đã ép gia đình nhà văn nộp sản lượng thuế vào một buổi đêm năm 1983 tại làng Láng, trong khi huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa) lúc bấy giờ bị lũ lụt do vỡ đê sông Cầu Chày và người dân địa phương thiếu ăn.

Hai phóng sự bút ký này lập tức đã gây tiếng vang chấn động trong bạn đọc và tất nhiên, gây sự tác động rất lớn đến tư duy nhận thức của lãnh đạo cũng như người dân. Có lẽ đây là những bài báo dám viết dám nói thẳng về thân phận của những con người thấp cổ bé họng để đòi công lý, lẽ phải trong một xã hội rất nhiều quy chụp, ám chỉ, cấm kỵ và những điều luật bất thành văn như thế.

Hay có thể nói thêm một tác phẩm truyền hình trên Đài truyền hình Việt Nam lúc đó đã đề cập đến việc nhiều hộ dân đã xây nhà trong tuyến đê bảo vệ sông Hồng. Bài báo đã khiến chính quyền ra tay, yêu cầu đập tháo dỡ những ngôi nhà xây trái phép đó.

Đây chính là những bài báo ra đời trong sự đổi mới. Việc báo chí nói thẳng nói thật tất nhiên đụng chạm đến lợi ích quyền lợi của một số người, nhưng thật sự đã đem lại một sức mạnh của công luận với tinh thần đổi mới chung của đất nước. Có thể nói trước khi đổi mới, chắc trên báo chí khó có thể xuất hiện những bài báo như thế.

Có thể nói Báo Lao Động là một trong những tờ báo đi đầu trong việc đổi mới thể loại phóng sự, có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của phóng sự Việt Nam. Năm 1990 báo Lao Động ra bộ mới, khổ to, in màu, lấy mảng phóng sự xã hội và bình luận sự kiện làm hai thể loại chủ lực. Báo Lao Động đã đăng tải nhiều phóng sự chất lượng, có giá trị xã hội cao, thu hút sự quan tâm của đông đảo công chúng. Các cây bút cộng tác viên trong nước đều mong muốn có một bài phóng sự được đăng trên báo Lao Động.

Lãnh đạo các cấp và các cơ quan ban ngành, đoàn thể đều rất quan tâm đến phóng sự trên báo Lao Động, bạn đọc tìm mua báo Lao Động để được đọc phóng sự. Báo Lao Động cũng chiêu mộ nhiều cây bút phóng sự về đầu quân cho mình. Từ đó một đội ngũ viết phóng sự đã hình thành, nhân rộng và lan tỏa khắp cả nước, góp phần đấu tranh, phản biện, tìm tòi, phát hiện với cách viết dấn thân, nhập cuộc, điều tra kinh tế, xã hội, tệ nạn, lối sống đời thường...

Báo Lao Động đã đầu tư cho người viết phóng sự. Phóng viên chuyên viết phóng sự được tạo điều kiện như một phóng viên đặc biệt, được đi nhiều, được chu cấp kinh phí, giảm thời gian có mặt tại cơ quan. Những tác giả in sách phóng sự được Ban biên tập hỗ trợ một phần kinh phí. Thời gian đầu, báo Lao Động chỉ có 2, 3 phóng viên viết phóng sự thì một thời gian sau đã có trên dưới 20 cây bút có thể viết được phóng sự, nhất là ở khu vực miền Trung từng được đánh giá là phóng viên nào cũng viết được phóng sự. Từ đó đã xuất hiện thêm các báo đầu tư sâu về phóng sự, tìm tòi các cây bút phóng sự, tổ chức các cuộc thi phóng sự...

Tình hình phát triển mạnh mẽ của phóng sự nói trên đã làm những thay đổi đáng kể về thể loại phóng sự. Giai đoạn này phóng sự có tính văn học, có cái tôi, có nhân vật, có nêm nếm tính giải trí, đặc biệt chú ý phong cách tác giả. Các cây bút phóng sự được bạn đọc đánh giá cao và nhớ tên chủ yếu là các cây bút phóng sự có phong cách riêng.

Về hình thức, giai đoạn báo chí bắt đầu đổi mới hầu hết đều tăng độ dài phóng sự, chú ý phóng sự nhiều kỳ, độ chữ có thể 3.000 chữ/bài kèm nhiều ảnh, ưu tiên mặt tiền trang báo, diện tích, chọn lựa kỳ báo, xuất hiện mô hình nhóm tác giả để thực loạt bài điều tra nặng ký, dài kỳ.

Một số tờ báo có phóng sự mạnh như: Lao động, Công an nhân dân, Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Tiền Phong, An ninh thế giới, Văn Nghệ , Tuổi Trẻ , Thanh Niên, Đại Đoàn Kết, Nhân Dân, Hà Nội Mới, Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, Người Lao Động...So với báo chí thời Pháp thuộc chỉ có khoảng 300 tờ báo thì hiện nay Việt Nam có hơn 800 đơn vị báo chí. Đây là thời kỳ phóng sự xã hội lên ngôi nhưng chỉ khoảng 10 -15 năm, sau đó chủ yếu là phóng sự điều tra.

Riêng mảng phóng sự điều tra có thời kỳ phát triển mạnh mẽ về số lượng cũng như chất lượng, đi sâu vào mọi lĩnh vực, mọi cấp độ đề tài, mọi lĩnh vực, mọi đối tượng, gần như không có vùng cấm. Khó có thể kể hết những phóng sự điều tra đã đem lại hiệu quả cao dẫn đến sự thay đổi lớn cho cơ chế chính sách, đến các giải pháp kinh tế xã hội, cũng như đến quyền lợi pháp lý và cuộc sống của người dân.

Điều đặc biệt là có thể nhận thấy cách điều tra của các nhà báo đã thể hiện sự dũng cảm dấn thân, nhập vai, biến mình thành người trong cuộc, đầu tư thời gian, công sức, tiền bạc, bất chấp nguy hiểm tính mạng, trở thành những chuyên gia pháp luật, đứng về phía lẽ phải, dũng cảm vượt qua mọi sự can thiệp để hoàn thành nhiệm vụ.

Giai đoạn sau thì đáng tiếc có một số cây bút điều tra có sai phạm tôn chỉ mục đích, nguyên tắc, đạo đức nghề báo, thỏa hiệp và vụ lợi...dẫn đến sự sai phạm, vướng vào vòng lao lý và bị kỷ luật vì chính ngòi bút điều tra của mình. Có những vụ là tai nạn nghề nghiệp nhưng đáng tiếc có những vụ là vi phạm đạo đức nghề báo, vi phạm pháp luật. Có những cây bút phóng sự điều tra vừa có những thành công vang dội ít lâu sau đã có những vấp váp thật đáng tiếc.

Là một người tham gia giảng dạy môn phóng sự ở Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, có chấm nhiều giải báo chí cấp quốc gia cũng như của các tỉnh thành, ban ngành, tôi nhận thấy ở Giải báo chí Quốc gia cũng như giải báo chí các cấp, thể loại phóng sự điều tra vẫn đoạt được nhiều giải thưởng hơn các phóng sự xã hội. Các nhà báo viết điều tra thời đổi mới cũng ngày càng nhiều hơn các cây bút viết phóng sự xã hội.

Ngay báo Lao Động - một tờ báo từ trước đến nay xuất hiện đều đặn phóng sự nay cũng chủ yếu dành diện tích cho phóng sự điều tra để thu hút bạn đọc là chủ yếu. Năm 2010, Ban Chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng tổ chức vinh danh 80 cá nhân có thành tích chống tham nhũng, trong đó có vinh danh 8 nhà báo có bài viết chống tham nhũng nổi bật.

Một trong những vấn đề của phóng sự gần đây là phóng sự xã hội ngày càng ít đi vì loại phóng sự này gắn với thời sự, ngày càng kén người viết, viết phải có văn, phải có cái tôi, phải có nhân vật, phải có câu chuyện. Viết hay thì sẽ có người đọc, kể cả viết dài, còn viết không hấp dẫn sẽ phải nhường chỗ cho những thể loại khác là điều tất nhiên.

Trong thời đại công nghệ số, internet phát triển, thời gian đọc của người đọc ngày càng ít đi, gấp gáp hơn, chọn lọc hơn, khó tính hơn...thì cách viết của người cầm bút cũng phải thay đổi. Vì thế hiện nay số chữ của phóng sự giảm dần, nhu cầu giải trí cao hơn nên đề tài thay đổi, cách đọc thay đổi dẫn đến cách viết thay đổi. Số người viết phóng sự xã hội ngày càng ít cũng là điều dễ hiểu.

Vấn đề của phóng sự báo in hiện nay là phải tự thay đổi theo những thay đổi chung của đất nước, của xã hội, của công nghệ làm báo và cách đọc báo của bạn đọc. Chúng ta khó lòng yêu cầu phóng sự báo in trở lại giai đoạn cao trào như trước.

Còn muốn duy trì được thể loại phóng sự trong thời kỳ hiện nay và sắp tới thì phải tùy điều kiện đặc điểm của địa phương, ngành nghề, của tờ báo, của lực lượng cầm bút. Để phóng sự báo in thật sự là một mũi nhọn chủ lực của báo, muốn phát triển thì cần đầu tư cho các cây bút như một số báo đã làm, như một số cây bút chuyên viết phóng sự đã làm...

Huỳnh Dũng Nhân

(Nguyên Phó Ban nghiệp vụ Hội Nhà báo Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Nhà báo TP. Hồ Chí Minh - Tổng Biên tập tạp chí Nghề báo)


Huỳnh Dũng Nhân

 {name} - {time}
{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận mới nhất

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Xem thêm:

Tin liên quan

Gợi ý

Thời tiết

POWERED BY
Việt Long