Nỗ lực đẩy lùi luật tục
(QT) - Lẩn khuất trong các bản làng ở phía tây Quảng Trị vẫn tồn tại những luật tục khiến nhiều người phải gánh chịu. Chính các cán bộ tư pháp, tuyên truyền viên, báo cáo viên pháp luật đã góp phần đẩy lùi luật tục, mang ánh sáng văn minh về bản.
.jpg) |
Trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số |
Đến giờ, ký ức về quãng thời gian nỗ lực “chặt đứt” tục nối dây vẫn vẹn nguyên trong tâm trí Giả Phi. Bà thầm cảm ơn cán bộ tư pháp đã tiếp thêm động lực để bà vượt qua thứ luật lệ bất thành văn vốn tồn tại nhiều đời. Xưa kia, đồng bào Vân Kiều thừa nhận tục nối dây và xem nó là cách duy nhất để gắn kết phụ nữ góa bụa với nhà chồng. Nếu ai không tuân theo ắt phải chịu phạt rất nặng. Ngồi khêu ngọn lửa le lói cháy trên bếp, Giả Phi chậm rãi kể: “Năm tròn 16 tuổi, mẹ lấy chồng. Cuộc sống nghèo đến tối tăm mặt mũi nhưng hạnh phúc lắm. Khi mẹ sinh đứa con thứ ba thì chồng không may qua đời. Theo phong tục, phía nhà chồng đánh tiếng đưa mẹ về làm vợ của người em trai. Oái oăm thay, người sang đặt lời lại là vợ của chú ấy”. Vì vẫn chưa quên hình bóng chồng, Giả Phi tìm kế “hoãn binh”. Thế nhưng, sau đó, em chồng, rồi bố chồng sang giục Giả Phi thực hiện luật tục. Mọi người xung quanh cũng lời ra, tiếng vào, sợ bà gieo sự xui rủi cho cả bản. Trong lúc đang dùng dằng chuyện đi bước nữa, sự xuất hiện của cán bộ tư pháp như tiếp thêm động lực cho Giả Phi. Ngay trong buổi tuyên truyền pháp luật, cán bộ đã phân tích về sự lạc hậu của tục nối dây và vận động dân bản không nên làm theo. Đặc biệt, câu chuyện của Giả Phi được đưa ra làm dẫn chứng. Từ phán xét, nhiều người đồng cảm với nỗi niềm của Giả Phi. Bà trở thành người đầu tiên ở bản “chặt đứt” hủ tục. Đến nay, một số hủ tục vẫn tồn tại, để lại “lời ru buồn” ở huyện miền núi Hướng Hóa. Hôn nhân cận huyết thống là một trong số đó. Theo quan niệm cũ, phụ nữ xuất giá đồng nghĩa với việc rời khỏi nhà, không còn liên quan đến gốc gác cũ. Nếu muốn níu giữ sợi dây tình cảm, cách tốt nhất là se duyên với người cùng họ tộc. Vì thế, nhiều đôi nam nữ cận huyết thống đã cưới nhau, để lại hệ lụy đau lòng. Tuy nhiên, việc xóa bỏ hủ tục vốn không dễ. Các cán bộ tư pháp, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật ở huyện Hướng Hóa không thể nhớ hết số lần mình tìm đến bản làng, tuyên truyền, vận động bà con. Họ chỉ tạm an lòng khi hủ tục hôn nhân cận huyết thống từng bước được đẩy lùi. Vùng đồng bào dân tộc thiểu số của tỉnh có 47 xã, thị trấn, thuộc địa bàn hai huyện Hướng Hóa và Đakrông cùng một số xã miền núi thuộc các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ. Toàn vùng có 16 xã biên giới, 27 xã và 29 thôn đặc biệt khó khăn. Ở một số thôn bản, các hủ tục như: Nối dây, hôn nhân cận huyết thống, tảo hôn, giải quyết mâu thuẫn bằng cách phạt trâu bò, ngăn cấm vào rừng ma… đã và đang ngáng trở con đường đi lên của đồng bào. Trước thực trạng ấy, những năm qua, Sở Tư pháp đã có nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Đầu tiên, Sở chủ trương đầu tư vào nguồn lực con người thông qua các lớp đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cán bộ tư pháp, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật. Hiện nay, toàn tỉnh có 126 báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh, 205 báo cáo viên cấp huyện, 998 tuyên truyền viên cấp xã. Huyện Hướng Hóa có 32 báo cáo viên pháp luật cấp huyện, 275 tuyên truyền viên pháp luật cấp xã. Ở huyện Đakrông, đội ngũ báo cáo viên pháp luật cấp huyện gồm 31 đồng chí và tuyên truyền viên là 36 đồng chí. Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật thường xuyên được củng cố, kiện toàn. Đến nay, Hội đồng phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật huyện Hướng Hóa gồm 28 thành viên, Đakrông 17 thành viên, là cán bộ lãnh đạo các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn. Nhằm giúp người dân đẩy lùi luật tục, các cán bộ tư pháp, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật đã tập trung phổ biến giáo dục pháp luật trực tiếp hoặc thông qua phương tiện thông tin đại chúng, tài liệu sinh hoạt, công tác hòa giải cơ sở, trợ giúp pháp lý… Trong đó, phổ biến pháp luật trực tiếp là hình thức được triển khai rộng khắp. Các cơ quan, đơn vị đã tổ chức nhiều hội nghị phổ biến pháp luật, các hội thảo, lớp tập huấn. Từ năm 2008 - 2014, toàn tỉnh đã tổ chức hơn 8.000 buổi tuyên truyền trực tiếp với gần 1,4 triệu lượt người tham gia. Bên cạnh đó, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin pháp luật đã về với người dân. Hệ thống truyền thanh cũng thường xuyên phát chuyên mục pháp luật để phục vụ dân bản. Trong hai năm 2013 – 2014, riêng huyện Hướng Hóa đã tổ chức phát sóng 324 chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật trên loa truyền thanh cơ sở. Các tài liệu phổ biến pháp luật được chuyển đến tận tay người dân vùng cao. Đáng chú ý là nhiều tài liệu tiếng dân tộc đã được biên soạn và phát hành. Một trong những hoạt động giúp nâng cao hiểu biết về pháp luật của người dân là hòa giải cơ sở. Theo số liệu thống kê của Sở Tư pháp, toàn tỉnh hiện có 1.176 tổ hòa giải với 6.765 hòa giải viên. Riêng tại huyện Đakrông hiện có 102 tổ hòa giải với 515 hòa giải viên, Hướng Hóa 192 tổ hòa giải với 1.250 hòa giải viên. Các tổ hòa giải hoạt động hiệu quả góp phần đẩy lùi hủ tục, hạn chế tình trạng vi phạm pháp luật, giảm số vụ việc tranh chấp, khiếu kiện vượt cấp, góp phần gìn giữ tình làng, nghĩa xóm, đảm bảo an ninh trật tự... Công tác phổ biến giáo dục pháp luật thông qua hình thức tư vấn, trợ giúp pháp lý đã hướng về vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Từ năm 2010 – 2014, Trung tâm Trợ giúp pháp lý tỉnh đã tổ chức được 49 hội nghị phổ biến, giáo dục, truyền thông pháp luật. Qua đó, các nội dung cơ bản của văn bản pháp luật liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của công dân được phổ biến cho gần 2.700 đối tượng là hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số. Trung tâm Trợ giúp pháp lý cũng đã thực hiện việc niêm yết bảng thông tin về trợ giúp pháp lý tại 21 xã nghèo, đặc biệt khó khăn theo quyết định của Chính phủ. Trong giai đoạn từ 2010 – 2014, đơn vị đã thực hiện được hơn 7.500 vụ việc trợ giúp pháp lý, trong đó trợ giúp pháp lý cho đồng bào dân tộc thiểu số gần 4.500 vụ việc. Bà Hồ Thị Lan, trú tại huyện Đakrông chia sẻ: “Trước đây, hễ có chuyện gì bà con cũng chiếu theo luật bản, lệ làng để giải quyết. Thế nên, nhiều việc oan trái mà mình phải cắn răng chịu đựng. Giờ thì khác rồi, chuyện lớn bé gì cũng có pháp luật phân xử, đúng đắn, thỏa lòng”. Bên cạnh kết quả đạt được, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn không ít hạn chế như: Kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện đi lại, trang thiết bị và nguồn lực phục vụ cho công tác phổ biến giáo dục pháp luật còn chưa đảm bảo; đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên trình độ chuyên môn, nghiệp vụ hạn chế; sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức liên quan vẫn thiếu chặt chẽ; hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật có lúc còn mang tính hình thức… Để phát huy hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đối với đồng bào dân tộc thiểu số, thiết nghĩ cần tập trung nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và xây dựng hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, nên có phương án bồi dưỡng nhận thức, năng lực đội ngũ cán bộ tư pháp, báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật; đổi mới nội dung, hình thức tuyền truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; phát huy tính tự giác, chủ động trong nhân dân; nâng cao vai trò của các tổ chức, đoàn thể, hội quần chúng; phát triển hình thức trợ giúp pháp lý… Ngoài ra, cần có phương án bố trí kinh phí, phương tiện, cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho đồng bào dân tộc thiểu số. Bài, ảnh: TÂY LONG