Một lớp, một thầy và sáu trò trên đỉnh núi Hùn
(QT) - Sau khi vượt nhiều con dốc dựng đứng, chúng tôi đến với lớp học của thầy Hồ Văn Hải (36 tuổi), người Vân Kiều ở bản Hùn Dốc, xã Ba Tầng, Hướng Hóa (Quảng Trị) vừa lúc thầy đang tranh thủ nhen bếp bắc nồi cơm tối.
.jpg) |
Lớp học với cơ sở vật chất khó khăn của thầy Hồ Văn Hải ở bản Hùn Dốc |
Xã Ba Tầng thuộc vùng Lìa huyện Hướng Hóa, nằm sát biên giới Việt - Lào. Nơi đây nằm cuối con đường Lìa nối từ xã Tân Long vào. Từ đây đi tắt có thể về xã Pa Nang, huyện Đakrông. Gần 5 giờ chiều mà nắng còn gay gắt. Con đường lên bản Hùn Dốc với những con dốc dài dựng đứng tưởng chừng như muốn lộn ngược mỗi khi xe gặp ổ gà, ổ voi. Mùa này rừng Trường Sơn khô khốc. Hai bên đường cỏ vàng quạch như vừa trải qua một cơn cháy rừng. Những đám cà phê ít ỏi của đồng bào Vân Kiều đang đơm hoa giữa thời tiết khô hạn. Bản Hùn Dốc nằm trên đỉnh núi Hùn, cách trung tâm xã chừng 15 km, thuộc Điểm trường Xa Ry, Trường THCS Ba Tầng. Khoảng cách không quá xa nhưng đường sá khó khăn là một vật cản lớn đối với người dân nơi này. “Mùa khô đường còn dễ đi, chứ gặp mùa mưa thì chỉ có gửi xe máy cuốc bộ”, thầy Nguyễn Hữu Hùng, Phó Hiệu trưởng Trường THCS Ba Tầng cho biết. Bản Hùn Dốc vẻn vẹn 11 ngôi nhà, 34 nhân khẩu, cuộc sống của bà con chủ yếu dựa vào nương rẫy, tự cung tự cấp, ít giao thương với bên ngoài nên còn nhiều hủ tục. Ở đây, một lớp học đặc biệt chỉ có 6 học sinh và 1 giáo viên phụ trách. Lớp học ở bản Hùn Dốc mở được 7 năm. Lý do mở lớp này được thầy giáo Nguyễn Hữu Hùng cho biết: “Do không đủ số lượng nên không mở được lớp quy mô, các em còn nhỏ, đường đến Điểm trường Xa Ry cách 5 km khó đi nên việc mở lớp dạy tại chỗ là hợp lý”. Năm 2013, khóa học đầu tiên gồm 5 học sinh học xong tiểu học ở lớp này, sau khi lên THCS có 3 em ra trường chính ở trung tâm xã học, 2 học sinh giỏi được chuyển thẳng ra trường nội trú huyện Hướng Hóa. Khóa học thứ 2 gồm 6 học sinh do thầy Hồ Văn Hải đứng lớp. Do đường sá khó khăn, giáo viên phải trụ lại cắm bản làm “công dân” của bản làng. Lớp học nằm giữa bản, đây là một ngôi nhà như những ngôi nhà bình thường hơn là lớp học. Nhà trên là lớp học được ngăn cách với nhà dưới bằng bậu cửa. Dưới đó là bếp nấu ăn và chỗ nghỉ ngơi của thầy Hải. Lớp học được che bằng ván, lợp bằng fibro xi măng, nền đất với lớp bụi dày. Chúng tôi có mặt ở lớp học đặc biệt này vừa lúc chuẩn bị tan lớp. Để cho kịp bữa cơm tối, tranh thủ học sinh học bài, thầy Hải quay xuống bếp nhen lửa để nấu cơm. Thấy lãnh đạo nhà trường và khách, thầy Hải lau vội hai bàn tay rồi chìa ra bắt tay chúng tôi thật chặt. Những hình ảnh này làm cho chúng tôi thật xúc động. Dường như ở chốn thâm sơn cùng cốc này, những vị khách không mời là một đặc ân để thầy hướng về thế giới bên ngoài vậy. Cho cả lớp nghỉ, thầy kéo ghế, pha trà mời khách rồi tâm sự. Quê ở Gio Linh, đầu năm 2014 thầy tạm biệt vợ và hai con lên với bản Hùn Dốc xa xôi này. Cũng là người đồng bào Vân Kiều, nên việc hòa nhập vào đời sống mới ở bản Hùn Dốc cũng rất dễ dàng. “Mới đầu lên đây mình không quen khí hậu, đau ốm liên miên. Nhiều lần tỉnh giấc giữa đêm, nghe tiếng côn trùng kêu mà nhớ nhà. Nhưng rồi quen dần. Mình có bản làng đùm bọc và lũ trẻ là nguồn vui lớn”. Đêm đến, để giải trí trước khi đi ngủ, phương tiện duy nhất là chiếc ra đi ô. Nhưng nguồn điện từ máy tua bin cứ chập chờn không nghe được lâu. Muốn có một máy năng lượng mặt trời để dùng lắm”, thầy Hải tâm sự. Do lợi thế biết tiếng dân tộc Vân Kiều nên thầy Hải có thể truyền đạt kiến thức cho 6 học trò một cách tỉ mỉ. Thầy và trò cứ gần gũi nhau như anh em, như cha con, là người một nhà nên các em tiến triển rất nhanh. Dù số lượng ít nhưng thầy vẫn dạy nghiêm túc. Các em mạnh dạn hỏi bài, trao đổi chứ không rụt rè như các lớp học có số lượng đông ở các trường. Cứ mỗi đầu năm học, giáo viên nhà trường cùng với các chiến sĩ ở Đồn Biên phòng Ba Tầng và người dân địa phương mua vật liệu gia cố thêm ngôi nhà. Mặc dù vậy nhưng đến thời điểm này, những cột chính của ngôi nhà đã bị mối mọt ăn. “Các anh đừng lo, rồi nhà trường sẽ tổ chức lao động cuối tuần để thay thế ngay nếu thấy không ổn”, thầy Hải khẳng định. Mỗi tuần một lần, thầy Hải xuống trung tâm xã hoặc ra chợ Tân Long mua thức ăn về dự trữ. Không điện, không tủ lạnh nên để dự trữ thức ăn cho cả tuần thì phải mua cá khô, cá nướng, cá hộp… Người dân nơi này xem anh như người nhà, mỗi lần trời mưa dài ngày, đường lầy không xuống núi được là các hộ gia đình góp thức ăn nuôi thầy, người thì góp cá, người góp miếng thịt, bó rau. Sự gắn bó giữa thầy và đồng bào nơi này như một sự trả ơn, theo cách lý giải của già làng Hồ Văn Nghĩa (Ăm Nghĩa): “Chúng tôi xem thầy Hải như người con của bản làng, còn thầy Hải xem học trò như con của mình. Cha con thì phải đùm bọc nhau”. Nói về những kỷ niệm, thầy Hải cho biết: “Hơn một năm đứng lớp học đặc biệt này, kỷ niệm với 6 học trò thì nhiều. Trong đó những chiều cuối tuần dắt chúng xuống suối cắt tóc và tắm. Đứa nào cũng gầy như cái que khô vậy, nhìn mà chảy nước mắt”. Một điều may mắn là điều kiện khó khăn, cực khổ thế nhưng các em lại hiếu học và học giỏi. Mưa hay nắng các em vẫn đến trường đều đặn, trừ trường hợp đau ốm, các em xem việc đến trường là niềm vui lớn. Thầy Hải cho biết do số lượng học sinh ít nên việc giám sát, theo dõi và bổ túc kiến thức của từng em rất dễ dàng. Thầy Nguyễn Hữu Hùng cho biết thêm: “Mặc dù ít về số lượng nhưng chất lượng lớp học này rất cao. Minh chứng cho điều này là ở khóa trước có 2 em sau khi học xong ở lớp này đã đạt tiêu chuẩn để ra trường nội trú huyện Hướng Hóa học tiếp”. Trăn trở về lớp học đặc biệt này, thầy giáo Nguyễn Bá Tam, Hiệu trưởng Trường THCS Ba Tầng chia sẻ: “Đất nước đang còn nghèo nên điều kiện vật chất trang bị các trường vùng miền núi, vùng sâu còn khó khăn. Giáo viên đã cùng ngành giáo dục san sẻ. Cơ sở vật chất từ từ sẽ có bằng nhiều nguồn vốn xã hội hóa, tuy nhiên vấn đề quan trọng là học trò. Chúng tôi chỉ sợ thiếu học trò”. Trong tương lai sau khi khóa học này kết thúc, nhà trường khảo sát lại nếu không đủ số lượng thì lớp học ở bản Hùn Dốc này cũng phải chấm dứt. Chia tay Hùn Dốc, chia tay thầy Hồ Văn Hải trở về chúng tôi như vẫn còn mang theo lời tâm sự của người thầy nơi biên giới: “Khi đã yêu nghề, mến học trò, xem học trò như con thì khó khăn nào cũng sẽ vượt qua”. Bài, ảnh: NGUYỄN KHIÊM