Đại biểu Quốc hội góp ý kiến các luật về thuế
(QT) - Theo chương trình kỳ họp thứ 11, Quốc hội thảo luận ở hội trường về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế. Đại biểu HÀ SỸ ĐỒNG, Phó Trưởng Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Trị đã tham gia thảo luận. Sau đây là lược ghi ý kiến phát biểu của đại biểu.
 |
Đại biểu Hà Sỹ Đồng phát biểu tại hội trường - Ảnh: P.H.N |
Dự thảo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT), Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế ngày 17/3/2016 đã tiếp tục rà soát và tiếp thu các góp ý của đại biểu Quốc hội một cách nghiêm túc và có chọn lọc, giúp tăng cường sự rõ ràng, minh bạch và tính khả thi. Tuy nhiên, dự thảo vẫn còn một số nội dung cần tiếp tục được xem xét và chỉnh sửa cụ thể như sau: Thứ nhất, đối với các sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế GTGT. Với sửa đổi, bổ sung Khoản 1, Điều 13, Luật thuế GTGT, việc quy định không hoàn thuế GTGT đối với “Dự án đầu tư của cơ sở kinh doanh không góp đủ số vốn điều lệ như đã đăng ký; kinh doanh ngành nghề, đầu tư kinh doanh có điều kiện khi chưa đủ các điều kiện kinh doanh theo quy định của Luật Đầu tư hoặc không bảo đảm tính duy trì đủ điều kiện kinh doanh trong quá trình hoạt động” là chưa đủ bảo đảm tính công bằng, khách quan và hợp lý. Mặc dù nội dung này đã được đề cập và giải thích tại bản báo cáo giải trình nhưng vẫn chưa có tính thuyết phục. Nội dung này không mang tính “đồng bộ với Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư” như báo cáo giải trình vì những lý do sau: Một là, mục đích, ý nghĩa, cũng như quy định thực hiện hoàn thuế GTGT là để các cơ sở kinh doanh đã nộp thuế GTGT đầu vào được hoàn lại một số tiền thuế GTGT đó khi chưa được khấu trừ hết. Quy định về hoàn thuế là quyền của các cơ sở kinh doanh, nên phải được áp dụng như nhau ở các doanh nghiệp có số thuế GTGT đầu vào lớn hơn và đầu ra theo đúng các điều kiện mà dự thảo luật đã nêu. Hai là, doanh nghiệp vi phạm các quy định của Luật Doanh nghiệp hay Luật Đầu tư đã có các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm. Nói cách khác, các doanh nghiệp vi phạm này đã bị xử lý theo các chế tài xử lý của pháp luật hoàn toàn thuộc phạm trù khác. Ba là, các hành vi vi phạm Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư không chỉ hạn chế ở hành vi không góp đủ số vốn điều lệ hay kinh doanh có điều kiện khi chưa đủ các điều kiện kinh doanh như nêu tại dự thảo luật nên sẽ không công bằng cho cơ sở kinh doanh đó vì có những cơ sở kinh doanh khác còn vi phạm những quy định pháp luật khác, thậm chí nặng nề hơn nhưng vẫn được hoàn thuế GTGT, ví dụ, doanh nghiệp vi phạm quy định về kinh doanh như kinh doanh trái phép hay doanh nghiệp trốn thuế. Vì những lý do trên, đề nghị xem xét bỏ nội dung này trong dự thảo luật. Trường hợp vẫn quy định và để đảm bảo tính đồng bộ như báo cáo giải trình đã nêu, đề nghị quy định mang tính tổng quát theo hướng: không hoàn thuế GTGT cho các cơ sở kinh doanh có hành vi vi phạm Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư hoặc pháp luật chuyên ngành khác trong quá trình hoạt động kinh doanh. Việc sửa đổi điều khoản này là cần thiết để bảo đảm tính đồng bộ, công bằng, khách quan và hợp lý cho các cơ sở kinh doanh vấn đề hoàn thuế GTGT. Dự thảo có quy định không hoàn thuế GTGT cho các doanh nghiệp có dự án đầu tư khai thác tài nguyên, khoáng sản hoặc dự án đầu tư sản xuất sản phẩm hàng hóa mà tổng giá trị tài nguyên khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% tổng giá trị tài nguyên khoáng sản có giá trị 51% thành phẩm trở lên theo hướng sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật về đầu tư; đồng thời quy định không thực hiện hoàn thuế GTGT đối với hàng hóa xuất khẩu là sản phẩm được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên. Quy định này dựa trên mục tiêu hạn chế việc xuất khẩu khai thác tài nguyên không qua chế biến sâu, có giá trị gia tăng thấp. Đề nghị xem xét lại nội dung này vì mục đích của quy định về hoàn thuế GTGT không phải là một công cụ thúc đẩy hay khuyến khích sản xuất hàng hóa có hàm lượng chế biến cao. Việc khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất, sử dụng công nghệ cao công nghiệp hóa, hiện đại hóa để có được hàm lượng chế biến sâu cho sản phẩm và mang lại giá trị gia tăng cao cần nằm ở các công cụ chính sách quản lý nhà nước mang tính tổng thể, trực diện và đồng bộ (khuyến khích qua các chính sách miễn, giảm thuế, giảm thuế tiền thuê đất, hỗ trợ vay vốn và các công cụ hỗ trợ khác) mà không nằm ở việc hạn chế các chính sách hoàn thuế cho doanh nghiệp khi chưa thực hiện chế biến sâu. Hơn nữa, việc hoàn thuế GTGT cho doanh nghiệp cần đảm bảo tính công bằng mà không thể vì doanh nghiệp đó chưa có hàm lượng chế biến cao thì không được hoàn thuế. Thứ hai, đối với sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Về giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt nêu tại Khoản 1, Điều 2 của dự thảo luật này đã được tiếp thu các ý kiến đóng góp và quy định theo hướng: nêu rõ cách xác định giá tính thuế tiêu thụ đặc biệt là giá do cơ sở nhập khẩu, cơ sở sản xuất bán ra nhưng không thấp hơn tỷ lệ 7% với giá bình quân của các cơ sở kinh doanh thương mại bán ra. Tuy nhiên, báo cáo giải trình chưa phân tích và đưa ra được cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc áp dụng tỷ lệ 7% này, tại sao là 7% mà không là 5%, hay 10%, hay 15%. Theo đó việc quy định một con số định lượng cụ thể là hợp lý để bảo đảm tính minh bạch và rõ ràng của điều luật, tránh việc các cơ quan hành pháp lợi dụng kẽ hở để cửa quyền cũng như cơ sở kinh doanh lợi dụng để lách luật. Tuy nhiên, con số cụ thể cần thống nhất với các văn bản có liên quan và thông lệ quốc tế. Ngoài ra, thế nào là “giá bình quân của các cơ sở kinh doanh thương mại bán ra” cũng chưa rõ ràng, chưa bảo đảm tính minh bạch. Theo đó, việc xác định giá bình quân của các cơ sở kinh doanh thương mại bán ra không mang tính ổn định mà có tính thời điểm, không mang tính chính xác mà có tính tương đối. Do đó, cần xác định và có tiêu chí cụ thể để xác định giá bình quân của cơ sở kinh doanh thương mại ngay trong dự thảo luật. Việc xác định giá bình quân chỉ nên áp dụng đối với các cơ sở kinh doanh thương mại có cùng loại sản phẩm, dịch vụ và giá được xác định trong từng thời điểm cụ thể. Do đó, đề nghị làm rõ thêm cách tính hoặc tiêu chí xác định giá bình quân của cơ sở kinh doanh thương mại bán ra. Dự thảo lần này có quy định chi tiết về “cơ sở kinh doanh thương mại”, theo đó, cơ sở kinh doanh thương mại là cơ sở không có quan hệ công ty mẹ - con hoặc công ty con của cùng một công ty mẹ với cơ sở nhập khẩu, cơ sở sản xuất và là cơ sở đầu tiên trong khâu lưu thông thương mại. Tuy nhiên, quy định này mặc dù có ý nghĩa hạn chế sự không minh bạch và hạn chế sự “bắt tay” giữa các doanh nghiệp trong khâu xác định giá tính thuế nhưng không đầy đủ, không phát huy hết vai tròhạn chế của mình. Bởi lẽ, quan hệ công ty mẹ - công ty con mang tính sở hữu nhưng các quan hệ có liên quan khác như “doanh nghiệp liên kết” có số vốn sở hữu lẫn nhau trên 11%, nhưng không phải công ty mẹ - công ty con, người quản lý doanh nghiệp này là người quản lý hoặc điều hành của doanh nghiệp kia...thì quy định này lại không phát huy được tác dụng. Hơn nữa, việc các doanh nghiệp có sự đầu tư vốn lẫn nhau, sở hữu chéo lẫn nhau, hay có quan hệ khác về quản lý điều hành trong thực tế rất đa dạng, việc đưa ra quy định hạn chế này không hiệu quả. Do đó, đề nghị quy định xem xét lại cụ thể vấn đề này. PHẠM HỒNG NAM (tổng hợp)