Cập nhật: Thứ 3, 23/04/2013 | 05:44 GMT+7

Triển khai chương trình giảm nghèo bền vững năm 2013 và định hướng đến 2015

(QT) - Chiều qua 22/4/2013, BCĐ Trung ương về giảm nghèo bền vững đã tổ chức hội nghị trực tuyến với các Bộ, ngành, địa phương để sơ kết 2 năm triển khai chương trình giảm nghèo bền vững và triển khai nhiệm vụ năm 2013, định hướng đến 2015. Đồng chí Vũ Văn Ninh, UVTƯ Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, Trưởng BCĐ Trung ương về giảm nghèo bền vững chủ trì hội nghị. Về phía đầu cầu Quảng Trị có đồng chí Nguyễn Đức Chính, UVTVTU, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh; đại diện một số sở, ban ngành liên quan. Kết quả 2 năm thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững của Bộ LĐ-TB&XH cho biết: Trên cơ sở khung Nghị quyết 80/NQ-CP, các chính sách giảm nghèo tiếp tục được Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo bố trí kinh phí để thực hiện. Cụ thể như chính sách khám chữa bệnh cho người nghèo trong 2 năm (2011-2012) đã bố trí 22.303 tỷ đồng để hỗ trợ mua thẻ BHYT cho người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi, hỗ trợ hộ cận nghèo nên đã có 29 triệu lượt người được cấp thẻ BHYT miễn phí, trên 10% người thuộc hộ cận nghèo tham gia mua thẻ BHYT được hỗ trợ bằng 70% mệnh giá. Chính sách về giáo dục-đào tạo đã hỗ trợ 11.844 tỷ đồng để hỗ trợ cho 4 triệu lượt học sinh nghèo được miễn giảm học phí, hỗ trợ tiền ăn ở, điều kiện học tập. Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số trong 2 năm đã bố trí 1.050 tỷ đồng để hỗ trợ đất ở cho 71.713 hộ, hỗ trợ đất sản xuất 83.563 hộ, hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán cho 214.466 hộ, xây dựng 5.573 công trình nước tập trung ở các thôn, bản, xã đặc biệt khó khăn. Chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm năm 2011-2012 đã bố trí 2.213 tỷ đồng để đào tạo nghề cho lao động nông thôn và hỗ trợ các huyện nghèo xuất khẩu lao động. Chính sách chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật sau 2 năm đã hỗ trợ, ứng dụng và chuyển giao tiến bộ KHKT cho 278 dự án. Chính sách trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số đã bố trí trên 52 tỷ đồng để triển khai các hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo. Chính sách hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo trong 2 năm qua đã tiếp tục bố trí 2.741 tỷ đồng. Chính sách hỗ trợ tiền điện cho hộ nghèo trong 2 năm đã bố trí 1.838 tỷ đồng hỗ trợ cho trên 5 triệu lượt hộ nghèo. Chính sách tín dụng ưu đãi đã bố trí 1.670 tỷ đồng, cấp bù lãi suất 3.050 tỷ đồng, có hơn 1 triệu lượt hộ nghèo được vay vốn, có 1,9 triệu hộ được vay vốn tín dụng học sinh, sinh viên... Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững trong 2 năm 2011-2012 đã bố trí 9.349 tỷ đồng. Các địa phương đã đầu tư trên 1000 công trình kết cấu hạ tầng ở các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển, hải đảo; đầu tư trên 5.000 công trình hạ tầng thiết yếu ở các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, trên 12.000 hộ nghèo được tham gia mô hình giảm nghèo, thông qua mô hình có khoảng 20-30% hộ thoát nghèo, góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 2-3%, mỗi năm có khoảng 32.000 cán bộ giảm nghèo các cấp được tham gia tập huấn về chuyên môn, kỹ năng để tổ chức thực hiện các chính sách giảm nghèo. Kết quả thực hiện Nghị quyết 30 a/2008/NQ-CP trong 2 năm qua ngân sách trung ương đã bố trí 6.840 tỷ đồng cho các huyện nghèo thực hiện các chính sách đặc thù theo Nghị quyết 30a. Tính đến cuối năm 2012 các huyện đã giao khoán bảo vệ rừng với tổng diện tích 1,3 triệu ha, hỗ trợ 6258 tấn lương thực cho 12.953 hộ nghèo nhận khoán chăm sóc, bảo vệ rừng với tổng kinh phí gần 80 tỷ đồng, tổ chức khai hoang 2.200 ha đất, phục hóa 1700 ha đất và tạo 1600 ha ruộng bậc thang giao cho các gia đình với kinh phí 43 tỷ đồng; hỗ trợ 512 tỷ đồng chuyển đổi giống cây trồng, vật nuôi tại các huyện nghèo; đầu tư 46 tỷ đồng tăng cường cán bộ khuyến nông, lâm, ngư; tổ chức tập huấn cho hơn 4. 300 lượt cán bộ thôn, bản, xã về quản lý chương trình, dự án, kỹ năng xây dựng và tổ chức thực hiện, ưu tiên kinh phí tổ chức đào tạo nghề, xuất khẩu lao động, vay vốn tín dụng ưu đãi… Thông qua tác động, hiệu quả thực hiện các chính sách, chương trình giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo của cả nước và các huyện nghèo giảm nhanh, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ 14,2% (2010) xuống còn 11,76% (2011) và 9,6% (2012), bình quân giảm 2,3%/ năm, hoàn thành vượt mục tiêu Quốc hội đề ra. Tuy nhiên kết quả thực hiện chương trình giảm nghèo chưa bền vững, sự chệnh lệch giàu- nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư chưa được thu hẹp. Mặc dù tỷ lệ nghèo đã giảm nhanh ở các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số nhưng nhiều nơi tỷ lệ nghèo vẫn còn trên 50%, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số chiếm gần 50% tổng số hộ nghèo trong cả nước, thu nhập bình quân của hộ dân tộc thiểu số chỉ bằng 1/6 mức thu nhập bình quân cả nước. Còn quá nhiều chính sách hỗ trợ khác nhau dẫn đến manh mún, dàn trải nguồn lực, trùng lặp, hiệu quả chưa cao. Các chính sách giảm nghèo hiện hành ở các địa phương cơ bản phù hợp, đáp ứng được nhu cầu của người nghèo, nhất là hộ đồng bào dân tộc thiểu số, tuy nhiên việc hướng dẫn sửa đổi một số chính sách còn chậm, việc tổ chức thực hiện thiếu đồng bộ… Mục tiêu chương trình giảm nghèo năm 2013, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm (từ 9,6% xuống còn 7,6%); riêng tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm 5%/năm. Đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm còn dưới 5% theo chuẩn hiện hành, tỷ lệ hộ nghèo các huyện nghèo còn dưới 30%. Về định hướng giải pháp tổ chức thực hiện đến năm 2015 là tiếp tục nghiên cứu, rà soát, đánh giá lại toàn bộ các chính sách giảm nghèo hiện hành, trên cơ sở đó xác định lại các chính sách nào cần tiếp tục thực hiện, chính sách nào cần sửa đổi bổ sung và chính sách nào nên kết thúc theo hướng gọn chính sách, gọn đầu mối quản lý; giảm dần các chính sách hỗ trợ mang tính trợ cấp, tăng các chính sách khuyến khích tính chủ động, vươn lên của người nghèo. Cần có chính sách hỗ trợ đối với hộ cận nghèo, nghiên cứu việc kéo dài thời gian thụ hưởng chính sách đối với hộ mới thoát nghèo để giảm nghèo bền vững. Nghiên cứu, đề xuất một số chính sách đặc thù đối với hộ nghèo dân tộc thiểu số, nhóm dân tộc ít người để ổn định đời sống. Đồng thời nghiên cứu khả năng điều chỉnh, bổ sung một số chính sách cho các hộ thoát nghèo tiếp tục được hưởng chính sách khám chữa bệnh, hỗ trợ giáo dục... UBTƯMTTQVN và các tổ chức thành viên tiếp tục tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và người dân ủng hộ đóng góp nguồn lực cho công cuộc XĐGN, tuyên truyền phổ biến các chính sách của Đảng, Nhà nước để chính sách hỗ trợ thực sự đi vào cuộc sống. Mặt khác tăng cường vai trò giám sát, kiểm tra thực hiện các chính sách ở các cấp, ngành, đảm bảo tính hiệu quả của chính sách. Sau khi nghe báo cáo của Bộ LĐ- TB&XH, các địa phương, Bộ, ngành tiến hành thảo luận về các nội dung, kết quả từ chương trình giảm nghèo bền vững. Đề xuất thêm một số cơ chế chính sách đặc thù của từng địa phương, trong đó phần lớn tập trung cho vùng miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số như đẩy mạnh chương trình giao khoán, chăm sóc bảo vệ rừng, áp dụng tiến bộ KHKT vào sản xuất, đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho lao động miền núi…Làm thế nào để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền, giữa những vùng có cùng điều kiện địa lý tự nhiên giống nhau nhưng mức độ giàu nghèo lại khác nhau. Tăng cường triển khai các chính sách hỗ trợ về sản xuất, giảm hỗ trợ mang tính trợ cấp để tạo tính bền vững trong giảm nghèo. Cần tăng tính dân chủ trong việc thực hiện chính sách giảm nghèo. Phát huy tính tự lực, tự cường cho người nghèo để tăng thêm nguồn lực từ cộng đồng. Giảm nghèo là việc làm thường xuyên nên cần phải có sự lồng ghép với các chương trình, dự án khác như xây dựng nông thôn mới. Triển khai lồng ghép các chính sách hỗ trợ ngay từ cấp trung ương để thống nhất việc triển khai và tổ chức thực hiện. Về cơ chế cần phân cấp mạnh cho địa phương, trung ương chỉ ra chủ trương, còn địa phương tùy theo điều kiện để chủ động cụ thể hóa các chương trình, đề án…Việc lập chính sách, cơ chế hỗ trợ cần phải tiếp cận từ cơ sở, căn cứ theo nhu cầu của cơ sở mới mang lại hiệu quả tích cực. Phát biểu kết luận hội nghị, Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh khẳng định đây là chương trình lớn có ý nghĩa chính trị, kinh tế, xã hội, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với người nghèo, huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị. Trong quá trình triển khai nhiều địa phương đã có cách làm chủ động, sáng tạo trong bố trí kinh phí, trong chính sách hỗ trợ…Các Tập đoàn, Tổng công ty đã nghiêm túc triển khai hỗ trợ thiết thực trong bối cảnh khó khăn về kinh tế. Đây là các nội dung cần phải được tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm để duy trì công cuộc XĐGN bền vững. Trong quá trình triển khai thực hiện đã có sự phối kết hợp giữa các Bộ, ngành để xử lý các vướng mắc nảy sinh. Sau 2 năm triển khai đã mang lại những kết quả tích cực. Tuy nhiên chương trình vẫn còn tồn tại một số vấn đề như tỷ lệ hộ nghèo cục bộ vẫn còn cao có nơi trên 50%, cơ chế còn chồng chéo đã phân tán hiệu quả. Một số nơi nhận thức, tư duy của người dân vẫn chưa muốn thoát nghèo để được thụ hưởng các chính sách hỗ trợ. Thực tế này cho thấy công tác vận động, tuyên truyền chưa làm thay đổi được nhận thức cho người dân, cấp ủy đảng và chính quyền địa phương chưa thật sự phát huy sức mạnh, vai trò của mình. Do đó đề nghị các địa phương cần xem xét, rà soát lại các tồn tại, hạn chế để có sự điều chỉnh hợp lý. Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh nhấn mạnh: Thời gian tới, mục tiêu là làm thế nào để giảm nghèo nhanh, bền vững. Đây là nhiệm vụ lâu dài và xác định là công việc của người dân nên làm sao người dân phải có ý thức thoát nghèo. Nhưng nếu tự người dân thực hiện thì chậm và không có hiệu quả nên cần đến sự hỗ trợ của nhà nước, sự chung tay góp sức của cộng đồng. Cần chú ý đến sự thống nhất, lồng ghép nhiều chính sách. Tiếp tục phát huy các chính sách có hiệu quả, khắc phục, chỉnh sửa các chính sách chưa phù hợp. Tập trung nghiên cứu các chính sách mới, mở rộng đối tượng hộ cận nghèo, mới thoát nghèo để hạn chế tình trạng tái nghèo. Chính sách hỗ trợ gắn với tạo việc làm, hỗ trợ sản xuất như thế mới thoát nghèo bền vững; khuyến khích các DN về tại địa phương để tổ chức sản xuất, thu mua sản phẩm cho người dân và tiếp nhận lao động địa phương sau đào tạo. Sau hội nghị, các Bộ, ngành tổng hợp, ban hành các chính sách để các địa phương triển khai thực hiện. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền để người dân và cộng đồng hiểu về chủ trương và cách thức triển khai trong giai đoạn tới. Biểu dương các điển hình làm tốt công tác XĐGN. Các địa phương cần cụ thể hóa các chỉ tiêu và kế hoạch phát triển KT-XH ở địa phương. Các kiến nghị cụ thể của từng địa phương, Chính phủ và BCĐ sẽ xem xét nghiên cứu, giải quyết một cách hợp lý và có hiệu quả. H.N.K



 {name} - {time}
{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận mới nhất

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Xem thêm:

Hiệu quả công tác giảm nghèo bền vững
22:37 08/12/2024

Thời gian qua, Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn Quảng Trị huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ ...

Phát huy sức trẻ trong giảm nghèo bền vững
22:50 20/12/2023

Thời gian qua, các cấp bộ đoàn trong tỉnh đã tích cực triển khai những nội dung trong chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Các bạn trẻ giàu tâm ...

Gần 10.000 học sinh và giáo viên nghèo được hỗ trợ

Gần 10.000 học sinh và giáo viên nghèo được hỗ trợ
22:44 22/04/2013

(QT) - Với nguồn kinh phí vận động được từ các tổ chức, cá nhân hảo tâm trong và ngoài tỉnh, trong những năm gần đây, Hội Khuyến học tỉnh Quảng Trị đã vận động được số tiền hơn...

9.580 hộ cận nghèo có nhu cầu vay vốn

9.580 hộ cận nghèo có nhu cầu vay vốn
22:42 22/04/2013

(QT) - Để thực hiện có hiệu quả Quyết định 15/2013/QĐ-TTg ngày 23/2/2013 của Thủ tướng Chính phủ về cho vay vốn đối với hộ cận nghèo, Chi nhánh Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh...

Thời tiết

27°C - 35°C
Ít mây, trời nắng nóng
  • 28°C - 37°C
    Ít mây, trời nắng nóng gay gắt
  • 28°C - 37°C
    Ít mây, trời nắng nóng gay gắt
POWERED BY
Việt Long