Sức sống trên cao nguyên đá (Kỳ 1)
(QT) - Cách đây 10 năm lên thăm Hà Giang, mong ước của tôi là được lên thăm Cao nguyên đá Đồng Văn và Cột cờ Lũng Cú, mảnh đất địa đầu của Tổ quốc. Nhưng dịp ấy đang là mùa mưa, trời mây mù, đường đang sửa chữa nên không đi được. Thấy khuôn mặt buồn xo của tôi, Phương Hoa - cô bạn đồng nghiệp an ủi tôi nên thay đổi kế hoạch đi thăm điểm chốt Vị Xuyên, cửa khẩu Thanh Thủy. Đã từng về cuối đất cuối trời phương Nam chạm đất mũi Cà Mau, đã đặt chân đến mũi Sa Vĩ nơi cực Đông Bắc, thế mà với Lũng Cú tôi vẫn lỗi hẹn, cứ thấy canh cánh bên lòng. Lần này, theo lời mời của các đồng nghiệp ở các tỉnh miền núi và trung du phía Bắc, chúng tôi quyết tâm đi. Đệ nhất hùng quan Mã Pì Lèng Buổi sáng hôm ấy ở thành phố Hà Giang trời bỗng chuyển mưa. Chúng tôi lặng lẽ xuất phát chuyến đi khi trời chưa sáng hẳn. Hành trình của chúng tôi đi qua hơn 200 cây số quãng đường đèo dốc của công viên địa chất toàn cầu, từ Quản Bạ, Yên Minh qua Đồng Văn, Mèo Vạc. Con đường này ngày trước có tên là “Đường Hạnh Phúc” do nhân công các tỉnh phía Bắc treo mình trên vách đá để mở đường từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước. Có lẽ chuyến đi của chúng tôi sẽ thiếu phần ý nghĩa nếu như không có hai vị khách mời của báo Hà Giang là nhà báo Lại Cao Khải và nhà báo Quốc Vượng, nguyên là phóng viên mặt trận Hà Giang trong cuộc chiến tranh biên giới nóng bỏng hơn 35 năm về trước. Bây giờ dù đã chuyển công tác ở địa bàn khác nhưng ký ức của các anh về những năm tháng công tác ở miền đất này vẫn thao thức, đằm sâu.
.gif)
|
Sự sống trên núi đá - Ảnh: H.G |
Ngồi bên cạnh tôi, Lại Cao Khải trầm ngâm khi gặp lại người xưa cảnh cũ. Anh vẫn chưa nguôi quên ký ức những lần đi công tác qua những ngả đường bây giờ chúng tôi đang đi thì bị pháo kích của phía bên kia bắn sang làm thương vong cho bao người. Vùng biên viễn này thời ấy mọi sinh hoạt như bị đảo lộn. Những quân đoàn của ta liên tiếp cơ động để đóng chốt, bám chắc vào dải đất biên cương để ngăn chặn sự tấn công của đối phương. Ngày ấy không chỉ quân chủ lực, mỗi người dân đồng bào các dân tộc nơi đây đều là một người lính ở tuyến trước, vừa sản xuất vừa chiến đấu đánh bạt quân xâm lược... Từ Quản Bạ theo quốc lộ 4C, xe chúng tôi đi men theo vách đá, khi thì bò dưới thung sâu, khi vắt mình chênh vênh trên sườn núi, khi cua gập hình chữ M. Xe bỗng dưng đột ngột lên cao. Anh Khải nói đây là Cổng trời. Từng đọc sách, báo đã nghe về địa danh này, giờ Cổng trời Quản Bạ là đây. Quản Bạ là huyện cửa ngõ của Cao nguyên đá Đồng Văn. Khi đi qua thị trấn Tam Sơn, Quốc Vượng chỉ cho chúng tôi thấy cặp núi đôi Cô Tiên nằm bình yên trong thung lũng. Nhìn toàn cảnh, địa hình đá vôi thường lởm chởm, gồ ghề do quá trình karst hoá hàng triệu năm, nhưng hình dáng núi đôi Cô Tiên lại tròn trịa theo dạng bát úp thật khác thường, như huyền thoại Cô Tiên bay về trời đã để lại phần thân thể đẹp nhất của mình. Từ đây trở đi, trên cao, trước mặt, hai bên đường, phía sau tầm nhìn của chúng tôi chỉ thấy bao trùm một màu xám của núi đá tai mèo, đá chồng lên đá. Sự khởi dựng hàng triệu năm của địa chất cổ xưa đã tạo nên một bức tranh kỳ vĩ, sừng sững, uy nghiêm giữa đại ngàn cao nguyên. Dừng chân trên đèo Mã Pì Lèng (theo tiếng địa phương nghĩa là sống mũi ngựa), cảm giác như ngộp thở bởi từ độ cao hơn 1.500 mét so với mực nước biển này, không khí loãng ra. Nhìn xuống, con sông Nho Quế như một sợi chỉ mong manh chảy quanh co dưới thung sâu. Buổi trưa, trời trong xanh không một gợn mây. Chúng tôi chọn các góc độ để chụp ảnh lưu niệm. Quanh nơi chúng tôi đứng ngổn ngang sắt thép, xi măng của công trình, người ta đang xây dựng ở đây một điểm dừng chân cho du khách tham quan được thoả sức ngắm cảnh, chụp hình đệ nhất hùng quan. Cạnh đó có một tấm biển ghi dòng chữ: “Nhằm giúp vùng núi tiến kịp vùng xuôi, Trung ương Đảng, Khu ủy Việt Bắc quyết định mở đường Hà Giang - Đồng Văn - Mèo Vạc. Ngày khởi công 10/9/1959, ngày hoàn thành 15/6/1965. Thành phần mở đường gồm 16 dân tộc ở các các tỉnh Cao Bắc Lạng, Hà Tuyên, Thái Nguyên, Hải Hưng, Nam Định...”. Với những giá trị về di sản địa chất, di sản văn hóa mang đậm dấu ấn lịch sử hào hùng một thời, năm 2009 Mã Pì Lèng được Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch xếp hạng Danh lam thắng cảnh quốc gia. Đèo Mã Pì Lèng thuộc địa phận xã Pải Lủng, huyện Mèo Vạc. Đây là một trong những nơi phong phú bậc nhất các di sản địa chất tiêu biểu của cao nguyên đá với những hình thù Kim tự tháp chóp nón karst, những sườn, vách karst nối tiếp nhau cùng tạo nên đệ nhất hùng quan. Với độ sâu 700 - 800 m, dài 1,7 km, vách dốc 70-90 độ, có thể nói Mã Pì Lèng là danh thắng thuộc loại kỳ vĩ nhất trên cao nguyên đá, được coi là hẻm vực sâu nhất Việt Nam, và cũng có thể là sâu nhất Đông Nam Á. Đệ nhất hùng quan Mã Pì Lèng đã được các nhà khoa học xếp vào di sản kiến tạo - địa mạo tầm cỡ quốc tế. Từ Mã Pì Lèng, nhìn lên, nhìn xuống, nhìn ngang, nhìn dọc chỉ thấy bạt ngàn đá núi, trùng trùng, điệp điệp, nhấp nhô, uốn lượn, lởm chởm, khô khốc, đen kịt. Đá bao bọc bốn phía. Có cái gì mà có sức hút bao nhà khoa học cũng như du khách đến vậy! Nơi đây chỉ có đá và đá, một màu đen xám, câm lặng. Nhưng đá đâu có vô tri. Những bức tường thành đá núi dồn dập là “lá chắn thép” giữ vững biên cương bờ cõi của Tổ quốc, để lá cờ trên Cột cờ Lũng Cú mãi tung bay trên đỉnh đầu biên cương của Tổ quốc. Đá tua tủa như gươm đao nơi biên cương giữ cho cuộc sống bình yên, cho sự vẹn toàn của đất nước. Đá còn tạo việc làm cho bao người dân kể từ khi Cao nguyên đá Đồng Văn được UNESCO công nhận là Công viên địa chất toàn cầu. Hàng ngày, hàng tuần có hàng trăm, hàng ngàn du khách trong và ngoài nước đến đây tham quan, thưởng ngoạn. Bây giờ ở các thị trấn Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc, chúng tôi bắt gặp nhiều nhà hàng, khách sạn hạng sang luôn nườm nượp du khách đến thăm Công viên địa chất toàn cầu. Và trên cao nguyên bạt ngàn đá núi đâu chỉ toàn đá mà còn có sự sống con người, cây cỏ... Lạ thay sự sống nảy chồi từ đá và vươn lên từ đá. Tôi hoàn toàn bất ngờ khi thấy trên những triền núi đá khắc nghiệt là những ngôi nhà nhỏ của người Mông và từ các hốc đá vươn trào sức sống của cây ngô, cây cải, cây đậu tương. Quả thật không thể hình dung với sự khắc nghiệt cái nóng của mùa hạ, cái lạnh của mùa đông mà người Mông vẫn sống được trên cao nguyên đá. Tôi càng cảm nhận được câu nói của người Mông “Sống trên đá chết vùi trong đá” khi nhìn thấy trên đường đi qua có những ngôi nhà được bao bọc bởi đá núi xếp rất chắc chắn; thỉnh thoảng bên những khóm ngô lên xanh có những ngôi mộ được xếp bằng đá, trên mộ có dải băng trắng, dấu hiệu mới an táng người đã khuất. Người ta nói rằng người Mông sống ở nơi khắc nghiệt như thế là để họ răn dạy con cháu của họ phải biết tìm sự sống trong cái khắc nghiệt của thiên nhiên để biết cái khổ trước đây của dân tộc mình. Nhìn cách canh tác của đồng bào, không thể không khâm phục người Mông khi thấy trên những triền núi đá họ vẫn dùng bò để cày những thửa đất rất nhỏ, mà cứ vài bước chân là vấp phải đá. Cứ thấy con bò đi một vài bước, họ lại nhấc cày lên tránh đá rồi đặt xuống, cứ thế nâng lên, đặt xuống...Những nắm đất hiếm hoi trong hốc đá được xới lên, rồi họ gieo ngô giống xuống mấy hôm là sự sống bật lên. Anh bạn đồng nghiệp cho biết ở đây người ta tính diện tích gieo trồng bằng số lượng ngô giống gieo chứ không thể tính được diện tích ruộng rẫy, vì diện tích đất nằm lẫn trong núi đá. Thế đấy, người Mông, người Lô Lô, người Dao… từ bao đời nay đã biết dựa vào đá núi, chắt lọc đất và nước từ đá để tồn tại, để sinh sôi như thân cây sa mộc cắm rễ sâu vào đá vươn lên thẳng đứng trên cao nguyên đá. Bây giờ đi ngang qua đường, có thể nhìn thấy mỗi ngôi nhà của người Mông có một bể chứa nước và nhà nào cũng có chuồng nuôi bò. Trên những ngọn đồi, dốc đá, ngoài cây ngô đang lên xanh còn có sự hiện diện của cây cỏ giống được bà con người Mông trồng để nuôi bò. Anh Lại Cao Khải cho biết, đó là chủ trương và sự trợ giúp của tỉnh Hà Giang cho đồng bào người Mông nên đời sống người dân nay đã được cải thiện rất nhiều... Đi qua những dốc đèo cao, vực sâu của cao nguyên đá, tôi lại hình dung cách đây hơn 30 năm về trước các nhà báo Lại Cao Khải, Quốc Vượng, Phương Hoa... từng trải qua những khó khăn vất vả trên tuyến chốt, có ngày họ phải đi bộ hàng chục cây số đường núi rừng bám bộ đội, bám dân để viết bài, chụp ảnh kịp thời biểu dương tinh thần chiến đấu kiên cường của quân và dân ta trong chiến đấu, bám trụ để giữ vững từng tấc đất chủ quyền thiêng liêng, đồng thời vạch trần tội ác của quân xâm lược. Thời đó ở Tây Nguyên, tôi cũng đi qua bao dặm đường đèo dốc mỗi khi về cơ sở công tác, nhưng không gian khó như địa hình cheo leo, hiểm trở nơi mảnh đất địa đầu này. Sau này khi tôi đưa người bạn đồng nghiệp của Phương Hoa về phương Nam thì em lại ngược lên phương Bắc và ở lại với đất này. Lần gặp lại mới đây Phương Hoa mời tôi đi ăn món cháo ấu tẩu nổi tiếng khi thành phố đã lên đèn. Tôi rất vui vì bây giờ em đã có một tổ ấm gia đình với một bé gái kháu khỉnh tuổi đã lên năm. Đảm trách nhiệm vụ công tác bạn đọc ở tờ báo tỉnh đã lấy đi rất nhiều thời gian của Phương Hoa nhưng thỉnh thoảng vẫn thấy em lên biên giới viết bài, như là cái duyên, cái nghiệp không thể dứt rời. (Còn nữa) MINH TỨ