
{title}
{publish}
{head}
* T.S Lê Hữu Phúc, UVTƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng TrịNăm 1989, Quảng Trị được tách ra từ tỉnh Bình Trị Thiên. Trở về với tên gọi thân thương của mình, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Quảng Trị vui mừng, hồ hởi bắt tay vào xây dựng quê hương. Buổi ban đầu đối mặt với biết bao khó khăn, thách thức: đó là một nền kinh tế thuần nông, phương thức canh tác lạc hậu; công nghiệp hầu như chưa có gì; cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội vô cùng khó khăn, thiếu thốn; thu nhập đời sống của các tầng lớp dân cư hết sức thấp kém, lại thêm thiên tai khắc nghiệt cũng như muốn thử thách lòng người Quảng Trị với liên tiếp hạn hán, bão lụt xảy ra.
Nhưng với tinh thần quật cường, cần cù vượt khó, sau 20 năm cùng cả nước trên con đường đổi mới, Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị đã phấn đấu tích cực, giành được những thành tựu quan trọng về nhiều mặt, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch đề ra. So với ngày lập lại tỉnh, nền kinh tế - xã hội Quảng Trị đã có nhiều phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế khá và liên tục, bình quân thời kỳ 1996- 2000 đạt 8,5%, thời kỳ 2001- 2005 đạt 8,7%, đặc biệt giai đoạn 2006-2008 đạt 11,1% (đạt yêu cầu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV đề ra). Chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực, từ chỗ công nghiệp, dịch vụ chưa có gì đáng kể, đến năm 2008 tỷ trọng công nghiệp đã chiếm 35,%, dịch vụ khoảng 35-37%, và nông nghiệp chỉ còn 30,5%. Cơ chế chính sách về huy động nguồn lực và thu hút đầu tư bước đầu được tạo lập và tổ chức thực hiện có hiệu quả. Tổng thu ngân sách trên địa bàn khi chia tỉnh chỉ vẻn vẹn chưa được 10 tỷ đồng, đến năm 2006 là 515 tỷ; năm 2007 là 618 tỷ đồng và năm 2008 đạt 724,4 tỷ đồng, vượt 14% kế hoạch, trong đó thu nội địa đạt 480,7 tỷ đồng, vượt 10% kế hoạch. Phân tích một số lĩnh vực cụ thể chúng ta thấy được sự chuyển mình đi lên của quê hương như sau: Về nông nghiệp đã phát triển khá toàn diện: Diện tích các loại cây trồng liên tục được mở rộng, năng suất, sản lượng không ngừng được nâng cao, riêng trồng lúa hàng năm ổn định trong khoảng 45-46 nghìn ha. Từ chỗ Trung ương phải trợ cấp lương thực, đến nay không những đảm bảo an ninh lương thực mà còn có sản phẩm hàng hóa bán ra ngoài địa bàn, sản lượng lương thực có hạt đạt bình quân 22 vạn tấn/năm (tăng hơn 10 vạn tấn so với ngày lập lại tỉnh, đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra cho cả nhiệm kỳ).
Tạo được một số vùng chuyên canh cây công nghiệp có giá trị kinh tế cao như: cao su với 13.240 ha, hồ tiêu 2.135 ha, cà phê 4.161 ha. Toàn tỉnh đã có trên 1.000 trang trại sản xuất trồng trọt, chăn nuôi, trồng rừng và cây ăn quả. Những cố gắng đó đã nâng giá trị trên một ha canh tác lên 25,5 triệu đồng, trong đó điển hình như lúa đạt 35 triệu đồng/ha, cao su đạt 55,6 triệu đồng/ha, cà phê đạt 71 triệu đồng/ha... Nuôi trồng thủy sản, hải sản phát triển khá với diện tích nuôi trồng là 2.512 ha và giá trị trên một ha nuôi trồng là 64,6 triệu đồng. Sản xuất công nghiệp và xây dựng: Khi mới lập lại tỉnh chỉ có 1 nhà máy điện với 4 máy F66 cũ kỹ, 1 xí nghiệp gạch và 1 xí nghiệp gốm thì hiện nay đã có mức tăng trưởng vượt bậc; giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng trong những năm gần đây tăng bình quân: 21,6%/năm. Tổng sản phẩm theo giá hiện hành năm 2008 đạt 2.263 tỷ đồng. Một số dự án đã và đang được đầu tư, góp phần tăng tỷ trọng công nghiệp trong GDP, như: Công trình thủy lợi - thủy điện Quảng Trị (khởi công năm 2003) đã hoàn thành đúng tiến độ, phát điện và hòa vào lưới điện quốc gia; Nhà máy gỗ MDF hoạt động có hiệu quả; Nhà máy may của Tổng công ty dệt may Hòa Thọ đã tổ chức khánh thành và đưa vào sản xuất; Trạm nghiền xi măng đã lắp đặt xong thiết bị chuẩn bị cho ra sản phẩm trong nay mai. Trong năm 2009 sẽ khởi công Nhà máy xi măng 60 vạn tấn/ năm và Nhà máy bia 15 triệu lít/năm. Kết cấu hạ tầng được đầu tư toàn diện, đặc biệt tại các khu công nghiệp Nam Đông Hà, Quán Ngang và Khu kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo đang được tập trung xây dựng và phát huy hiệu quả. Khu vực dịch vụ: Tỉnh đã thực hiện nhiều giải pháp chỉ đạo cụ thể, tốc độ tăng trưởng các ngành dịch vụ bình quân thời kỳ 2006- 2008 là 8,5%/năm (đạt mức Nghị quyết đề ra). Hoạt động thương mại cơ bản đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Cơ sở hạ tầng được chú trọng đầu tư, góp phần thu hút các nhà đầu tư, nhất là trên tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây. Du lịch có những chuyển biến tích cực, tổng lượng du khách đến tỉnh trong 2 năm 2006- 2007 tăng bình quân 21,9%/năm, trong đó khách quốc tế tăng 21,6%. Một số sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh như: Du lịch hoài niệm về chiến trường xưa và đồng đội, Du lịch Đông Tây, DMZ... đã khẳng định được thương hiệu và từng bước phát triển. Huy động vốn đầu tư xã hội: Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội giai đoạn 2006- 2008 ước đạt trên 8.400 tỷ đồng, đạt 67,2% mục tiêu huy động của cả thời kỳ 2006- 2010 (chưa tính trượt giá); tốc độ tăng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội bình quân hàng năm đạt 24,6%. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên tổng GDP (theo giá hiện hành) năm 2006 là 50,5% đến năm 2008 tăng lên 55,5%. Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội từ chỗ thấp kém, thiếu thốn (năm 1989 toàn tỉnh chỉ có 3,5 km đường nhựa) đến nay đã có tiến độ vượt bậc, tạo tiền đề cơ bản cho phát triển của thời kỳ trước mắt, chuẩn bị điều kiện cho bước phát triển những năm tiếp theo, nhất là góp phần thu hút các nhà đầu tư.
Một số cơ sở hạ tầng quan trọng như Quốc lộ 9, đường Hồ Chí Minh, đường ven biển, cầu Cửa Tùng, Cửa Việt, các khu dịch vụ hậu cần nghề cá, các tuyến đường giao thông về trung tâm xã và cụm dân cư miền núi, hệ thống các công trình thủy lợi, đê kè được đầu tư nâng cấp, xây dựng mới đáp ứng ngày càng tốt hơn cho yêu cầu phát triển sản xuất và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, góp phần phát triển kinh tế, cải tạo môi trường sinh thái. Hệ thống chợ được đẩy mạnh xây dựng. Điện lưới quốc gia, bưu chính viễn thông, trường học, cơ sở y tế khám chữa bệnh, các di tích lịch sử và các kết cấu hạ tầng khác được tăng cường đáng kể, góp phần quan trọng nâng cao năng lực phát triển kinh tế - xã hội và đáp ứng nhu cầu đời sống nhân dân. Về văn hóa- xã hội: Sự nghiệp giáo dục- đào tạo đạt được những tiến bộ đáng trân trọng, mặt bằng dân trí được nâng cao, tạo tiền đề cho phát triển nguồn nhân lực trên địa bàn. Giai đoạn 2006-2008 tỉnh đã chi 21,3% trong tổng chi ngân sách địa phương để đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Tỉnh đã hoàn thành phổ cập THCS năm 2006. Công tác dạy nghề có chuyển biến tích cực. Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2006 là 25,13% đã tăng lên 28,5% vào năm 2008, trong đó tỷ lệ lao động được đào tạo nghề từ 15,4% tăng lên 19,7%. Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân được đẩy mạnh. Các dịch bệnh nguy hiểm được phát hiện và dập tắt kịp thời góp phần đảm bảo sức khỏe, an toàn tính mạng và tài sản nhân dân. Tỉnh đã dành 4,9% tổng chi ngân sách địa phương cho sự nghiệp phát triển y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân trong giai đoạn 2006-2008. Dự kiến đến cuối năm 2009 toàn tỉnh có 20 giường bệnh/vạn dân, tăng 3,6 giường so với năm 2006; có 6 bác sĩ/vạn dân; 60% trạm y tế xã có bác sĩ; 100% trạm y tế xã có nữ hộ sinh và 48 xã, phường thị trấn trong tỉnh đạt chuẩn quốc gia về y tế xã (chiếm 34,5%). Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa cơ sở" tiếp tục có nhiều chuyển biến tích cực; toàn tỉnh hiện có 97.395 gia đình (74,28%) và 1.551 làng, bản, đơn vị (81%) được công nhận văn hóa. Các thiết chế văn hóa đang được đầu tư xây dựng và trùng tu, tôn tạo; tỷ lệ hộ được xem truyền hình tăng từ 75% năm 2006 lên 89% vào năm 2008 và tỷ lệ hộ được nghe Đài Tiếng nói Việt Nam tăng từ 80% năm 2006 lên 90% vào năm 2008. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2005 là 28,4% đến nay còn 16,8%. Tất cả hộ nghèo được hưởng giáo dục cơ bản miễn phí. Tình hình tái nghèo do thiên tai và các rủi ro khác có xu hướng giảm. Các chính sách xã hội, công tác chăm sóc, giúp đỡ gia đình và thân nhân các liệt sĩ, thương binh, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng được đặc biệt quan tâm và đạt nhiều tiến bộ. Đời sống đại bộ phận nhân dân được cải thiện đáng kể, bộ mặt đô thị, nông thôn có nhiều đổi thay, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Quốc phòng được củng cố tăng cường, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hoạt động của Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể quần chúng được đẩy mạnh. Đoàn kết nội bộ có chuyển biến tích cực góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của các cấp chính quyền và vai trò của Mặt trận, đoàn thể nhân dân các cấp, tạo sự đồng thuận trong cộng đồng dân cư, biến thành sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ quê hương. Mặc dù đến nay Quảng Trị vẫn còn là tỉnh nghèo, nhưng nhìn toàn cảnh so với trước thời điểm thực hiện công cuộc đổi mới và ngày đầu mới lập lại tỉnh, đã có những đổi thay to lớn và toàn diện. Những thành tựu đạt được trên đây có ý nghĩa cực kỳ quan trọng cả trước mắt cũng như lâu dài và đang tạo đà, tạo thế để Quảng Trị phát triển nhanh, bền vững, mở ra triển vọng và khả năng hội nhập kinh tế trong và ngoài nước. Với sự phấn đấu trên nhiều lĩnh vực trong năm 2008, theo đánh giá của VCCI, chỉ số cạnh tranh PCI của tỉnh đứng thứ 40 trên 64 tỉnh, thành cả nước (năm 2007 đứng thứ 47). Bước vào thời kỳ phát triển mới, với truyền thống cách mạng và niềm tự hào sau 37 năm giải phóng, cùng hành trang quý báu của 20 năm lập lại tỉnh, Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị nỗ lực phấn đấu, sáng tạo hoàn thành thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn tới: Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ, toàn diện, vững chắc trên tất cả các lĩnh vực. Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh lần thứ 14 đề ra cho thời kỳ 2006-2010: Tăng trưởng kinh tế liên tục, bình quân từ 11% đến 12%/năm; giải quyết việc làm cho 7.500-8.000 lao động/năm để đến 2010, có cơ cấu kinh tế công nghiệp - xây dựng chiếm 33-35%; thương mại- du lịch- dịch vụ 38-40%; nông, lâm nghiệp, thủy sản 25-27%; thu nhập bình quân đầu người đạt 10 triệu đồng/năm. Tỷ lệ hộ đói nghèo đến năm 2010 giảm còn dưới 15%. Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết tỉnh Đảng bộ lần thứ 14, phấn đấu đưa tỉnh thoát khỏi nhóm nghèo của cả nước thì các nhiệm vụ chủ yếu về phát triển kinh tế- xã hội trong 2 năm 2009-2010 được xác định là: 1. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong phát triển nông - lâm - ngư nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
![]() |
Công trình thủy lợi Sa Lung. - Ảnh: Hồ Cầu |
![]() |
Thông xe theo Hiệp định GMS tại cửa khẩu Lao Bảo. - Ảnh: H.C |
Năm 2009 là năm thứ tư của Kế hoạch 5 năm 2006-2010, năm có vị trí quan trọng, quyết định bước phát triển cho cả nhiệm kỳ 5 năm, cũng là năm kỷ niệm 20 năm ngày lập lại tỉnh. Nhiệm vụ đang đặt ra cho toàn Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị hết sức nặng nề, chặng đường phía trước có nhiều thời cơ, thuận lợi, song cũng đầy khó khăn, thách thức.
Tin tưởng rằng, Quảng Trị tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng cách mạng trong thời kỳ mới, tăng cường đoàn kết, đổi mới toàn diện và sâu sắc, phát huy cao độ sức mạnh toàn dân, đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển bền vững, phấn đấu ra khỏi tình trạng một tỉnh nghèo, cơ bản đạt trình độ phát triển ngang mức trung bình của cả nước vào năm 2010.
Năm 2022, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, đoàn thể và cả hệ thống chính trị của tỉnh đã phát huy sức mạnh đoàn ...
Phòng Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) Triệu Phong thành lập tháng 5/1973. Sau ngày Quảng Trị giải phóng, ngày 2/4/1975, Chủ tịch UBND cách mạng tỉnh Quảng Trị ...
Sau hơn 30 năm kể từ ngày lập lại tỉnh, từ một vùng đất còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn, Quảng Trị đã tạo được những bước chuyển biến vượt bậc, đưa nền kinh ...
Việc đẩy mạnh tuyên truyền, huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân cùng tiền gửi của các tổ viên tổ tiết kiệm và vay vốn (TK&VV) của Ngân hàng Chính sách xã ...
Những năm qua, huyện Đakrông triển khai đồng bộ các giải pháp trợ giúp phát triển kinh tế tư nhân. Được tạo điều kiện thuận lợi từ nhiều cơ chế, chính sách, ...
Trong những năm qua, thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nền KT - XH của tỉnh Quảng Trị có bước phát triển toàn diện trên các lĩnh vực. ...
Để tạo nên bức tranh kinh tế phát triển thì vai trò mỗi ngành, mỗi lĩnh vực đều không thể thiếu, các lĩnh vực đều là những mắt xích quan trọng để tạo nên chuỗi ...
QTO - Xác định công tác tạo nguồn, bồi dưỡng, phát triển đảng viên là một trong những nhiệm vụ then chốt nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của...
QTO - Để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, thời gian qua, thành phố Đông Hà đã triển khai đồng bộ, hiệu quả nhiều giải pháp để nâng cao chất...
Phát biểu của đồng chí Lê Hữu Phúc, UVTƯ Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị tại buổi gặp mặt đội ngũ báo chí tỉnh nhà, nhân kỷ niệm 84 năm ngày Báo chí cách mạngViệt NamKính...
* Nguyễn Hà Phương, TUV, Tổng biên tập Báo Quảng Trị, Chủ tịch Hội Nhà báo VN tỉnh Quảng Trị
(QT) - Gương mẫu - đó là sự kết tinh các yếu tố tâm lý, tư tưởng, tình cảm, ý chí vượt lên cái tôi ở trong mỗi con người để hướng tới khẳng định hành vi, việc làm trong thực...
* Đồng chí Phạm Đức Châu, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị đóng góp ý kiến về Đề án Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục (QT) - Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XII,...
(QT) - Hôm nay, Uỷ ban Về các vấn đề xã hội phối hợp với Dự án “Tăng cường năng lực cho các cơ quan đại diện ở Việt Nam” vừa tổ chức họp báo triển khai hoạt động thí điểm tham...
(Phát biểu nhận nhiệm vụ Chủ tịch UBND tỉnh của đồng chí Nguyễn Đức Cường) Kính thưa các đồng chí lãnh đạo tỉnh! Thưa các vị đại biểu HĐND tỉnh! Thưa toàn thể cử tri và nhân...