Nhìn lại 5 năm thực hiện công tác bình đẳng giới tại Quảng Trị
(QT) - 5 năm qua, với sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy và UBND tỉnh Quảng Trị, sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành nên công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó cũng là nhờ sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, địa phương trong việc thực hiện có hiệu quả Kế hoạch hành động số 1347/ KH-UBND ngày 6/10/2011 về thực hiện bình đẳng giới tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2011-2015.
 |
Trẻ em trai và trẻ em gái đều cần được hưởng một nền giáo dục bình đẳng và tiến bộ - Ảnh: THANH HẢI |
Trước hết là các hoạt động tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo, từng bước giảm dần khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Để làm được điều này, tỉnh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo các cấp, các ngành thực hiện tốt các chủ trương, biện pháp nhằm tăng cường công tác cán bộ nữ, đặc biệt là phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy các cấp đạt từ 25% trở lên, các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên. Đồng thời chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút và tạo nguồn cán bộ có chất lượng. Trong đó có chính sách đối với cán bộ nữ; tổ chức lớp bồi dưỡng cho các nữ đại biểu tham gia ứng cử đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2011- 2016, tạo điều kiện cho chị em được tham gia ứng cử vào các vị trí lãnh đạo. Cùng với đó, tỉnh cũng xây dựng quy hoạch cán bộ nữ theo hướng mở để tạo điều kiện cho nữ cán bộ có cơ hội bổ nhiệm vào các chức vụ lãnh đạo; mạnh dạn bố trí những cán bộ nữ có năng lực vào các vị trí chủ chốt… Hiện nay, tỷ lệ nữ tham gia đại biểu Quốc hội đạt 16,66% (1/6); tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đảng, cấp tỉnh 11,32% (tăng 2,22%), trong đó nữ tham gia Ban Thường vụ đạt 13,33%; cấp huyện 15% (tăng 3,1%); cấp xã 17,9% (tăng 2,5% ). Tỷ lệ nữ tham gia HĐND các cấp cũng tăng so với các năm trước, cấp tỉnh đạt 26% (tăng 3,6); cấp huyện 14,66%, cấp xã 16,04%. Tỷ lệ nữ trong quy hoạch cấp ủy nhiệm kỳ 2015-2020, cấp tỉnh tăng 4,4%, cấp huyện tăng 2,3%, cấp xã tăng hơn 10% so với nhiệm kỳ 2010- 2015. Bên cạnh đó, tỉnh cũng triển khai nhiều hoạt động làm giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực kinh tế - lao động. Tăng cường sự tiếp cận của phụ nữ nghèo ở nông thôn với các nguồn lực kinh tế và thị trường lao động, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Trong đó, nổi bật là việc thực hiện đề án "Hỗ trợ phụ nữ học nghề, tạo việc làm”. Kết quả sau 5 năm, tổng số người được tạo việc làm mới có ít nhất 48,46% là lao động nữ; tỷ lệ lao động nữ nông thôn dưới 45 tuổi được đào tạo nghề và chuyên môn kỹ thuật đạt 47,36%; tỷ lệ phụ nữ dân tộc thiểu số được hỗ trợ đào tạo nghề theo chính sách của nhà nước khoảng 45,15%. Đồng thời, tạo điều kiện hỗ trợ giúp chị em phụ nữ nghèo nông thôn, phụ nữ dân tộc thiểu số được vay vốn ưu đãi từ các chương trình, chính sách việc làm và giảm nghèo. Tính đến ngày 30/11/2015, tỷ lệ phụ nữ làm chủ hộ được vay vốn ưu đãi đạt 85,43% (tổng số tiền 445.979,33 tỷ đồng); tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị đối với lao động nữ giảm xuống dưới 5%. Trong lĩnh vực gia đình, tỉnh đã tăng cường công tác tuyên truyền về phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bảo vệ, chăm sóc giáo dục trẻ em, Luật Bình đẳng giới. Trong đó đẩy mạnh việc thực hiện đề án “Tuyên truyền giáo dục đạo đức lối sống trong gia đình Việt Nam” tại nhiều thôn, bản; các mô hình tuyên truyền giáo dục đạo đức lối sống trong gia đình Việt Nam, mô hình ngăn ngừa và giảm thiểu tác hại bạo lực trên cơ sở giới hoạt động có hiệu quả, đặc biệt là câu lạc bộ Phòng chống bạo lực gia đình ở xã Vĩnh Tú (huyện Vĩnh Linh), xã Hải Thượng (huyện Hải Lăng) xã Tà Long (huyện Đakrông) 5 xã của huyện Triệu Phong. Toàn tỉnh đã thành lập được 950 tổ tư vấn hòa giải và xây dựng 343 địa chỉ tin cậy tại cộng đồng để hỗ trợ nạn nhân bị bạo lực; tổ chức các đợt khảo sát tình trạng bạo lực gia đình tại 141/141 xã, phường, thị trấn. Qua khảo sát cho thấy, vấn nạn bạo lực trong gia đình vẫn còn diễn biến phức tạp, tuy nhiên so với những năm trước đã giảm rõ rệt. Số hộ gia đình được công nhận gia đình văn hóa không ngừng tăng lên, đạt 91%. Những thành quả đó đã góp phần xây dựng gia đình “ấm no, tiến bộ, hạnh phúc”. Ngoài ra, việc thực hiện bình đẳng giới trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa - thông tin cũng đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận. Tỷ lệ phổ cập biết chữ cho phụ nữ từ 15-40 tuổi ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đạt 98%; tỷ lệ trẻ em gái ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn được học tiểu học và THCS đạt khoảng 98% và 100% giáo viên nữ công tác ở các vùng này đều được bố trí nhà ở công vụ; tỷ lệ nữ có trình độ tiến sĩ, thạc sĩ đạt 26,18%; tỷ lệ giới tính khi sinh 109 trẻ sơ sinh trai/100 trẻ sơ sinh gái (năm 2015), vượt 103,67% kế hoạch; tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản 23,2/100.000 trẻ đẻ; tỷ lệ phụ nữ có thai được khám đủ 3 lần trở lên đạt 95%; tỷ lệ phá thai dưới 25/100 trẻ đẻ sống; tỷ lệ phụ nữ mang thai được điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con đạt 100%; thời lượng phát sóng các chuyên mục và số lượng các sản phẩm tuyên truyền về bình đẳng giới cũng được tăng lên. Đã tổ chức phát sóng 30 chuyên mục bình đẳng giới trên Đài PTTH tỉnh, 54 chuyên mục bình đẳng giới trên Báo Quảng Trị và nhiều tin bài trên trang thông tin điện tử của các đơn vị; phát hành hơn 5.000 tờ rơi, tờ gấp, 110 tờ áp phích và cấp phát gần 1.500 sổ tay tuyên truyền về công tác bình đẳng giới tại các địa phương trên địa bàn. Để tiếp tục triển khai có hiệu quả công tác bình đẳng giới, trong thời gian tới cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về Luật Bình đẳng giới, Nghị quyết số 11-NQ/ BCT về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2015 và xây dựng kế hoạch hành động trong những năm tiếp theo. Đồng thời, huy động sự vào cuộc của toàn thể cấp ủy, các tổ chức chính trị xã hội, các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân tham gia thực hiện công tác bình đẳng giới và VSTBCPN. Tích cực phối hợp với các sở, ban, ngành, các tổ chức, đoàn thể, các huyện, thị xã, thành phố tổ chức các khóa tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về giới, bình đẳng giới và công tác nữ phù hợp với điều kiện công tác của đơn vị. Chỉ đạo các sở, ban, ngành, hội, đoàn thể tỉnh và Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ các huyện, thị xã, thành phố tiếp tục triển khai lồng ghép vấn đề bình đẳng giới và VSTBPN trong kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội cũng như trong xây dựng cơ chế, quy chế của đơn vị, địa phương. Nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của Ban VSTPCPN các cấp; thành lập, củng cố, kiện toàn Ban VSTBCPN trong hệ thống các tổ chức chính quyền, ban đảng, tổ chức hội, đoàn thể. Tham mưu cho cấp ủy việc quy hoạch đào tạo cán bộ nữ. Giới thiệu những cán bộ nữ đủ tiêu chuẩn, điều kiện đưa vào nguồn quy hoạch, đề bạt tham gia bộ máy lãnh đạo các cấp, góp phần đẩy mạnh triển khai thực hiện công tác bình đẳng giới cũng như đảm bảo các quyền bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực và trên mọi mặt của đời sống xã hội. Tham mưu UBND tỉnh xây dựng và triển khai kế hoạch bồi dưỡng kỹ năng cho cán bộ nữ tiềm năng ứng cử đại biểu Quốc hội, HĐND các cấp nhiệm kỳ 2016-2021. Tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ công tác vì sự tiến bộ của phụ nữ cho các thành viên Ban VSTBCPN các cấp; xây dựng và bồi dưỡng các kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ báo cáo viên, cộng tác viên về công tác bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ nữ ở các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; phân công trách nhiệm cụ thể cho từng thành viên BCĐ định kỳ quý, 6 tháng và hàng năm, tổ chức kiểm tra, giám sát quá trình hoạt động bình đẳng giới, các chế độ chính sách, công tác quy hoạch, bổ nhiệm... tại đơn vị, địa phương. THÚY NHUNG