Cập nhật: Thứ 2, 27/10/2008 | 10:31 GMT+7

Đôi nét Miền Trung - Tây Nguyên

(QT) - Miền Trung- Tây Nguyên, vùng đất nổi tiếng địa linh nhân kiệt, nước biếc non xanh... Miền đất này qua hàng ngàn năm lịch sử đã cống hiến cho đất nước rất nhiều người con ưu tú, kiệt xuất, đóng góp to lớn vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Đây cũng là miền đất của những di tích, danh thắng đặc biệt và hấp dẫn. Nhân hội thảo báo Đảng các tỉnh miền Trung- Tây Nguyên lần thứ 13 (vòng III) tổ chức tại Quảng Trị từ ngày 29-30/10/2008, Quảng Trị Online trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc vài nét phác thảo về vùng đất này. Khu di tích Kim Liên: Tài sản vô giá của quốc gia Những ngày tháng 5 hàng năm, hàng chục triệu bước chân, tấm lòng của đồng bào, đồng chí, bè bạn tìm đến xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh cất tiếng chào đời và sống những năm thời niên thiếu dưới mái nhà tranh, với niềm thành kính, xúc động sâu xa.

Cụm di tích Hoàng Trù những ngày tháng Năm lịch sử
Di tích lịch sử - văn hóa Kim Liên (gọi tắt là Khu di tích Kim Liên) được Đảng và Nhà nước cho xây dựng từ thập niên sáu mươi của thế kỷ trước. Năm 1979, được xếp hạng là Di tích Quốc gia Đặc biệt. Đây là một trong bốn di tích quan trọng bậc nhất của cả nước về Chủ tịch Hồ Chí Minh, lưu giữ những hiện vật, tài liệu, không gian văn hóa - lịch sử về thời niên thiếu của Bác Hồ và những người thân trong gia đình Bác. Toàn bộ khu di tích bao gồm nhà tranh nhỏ của cụ Nguyễn Sinh Sắc và bà Hoàng Thị Loan; ngôi nhà của ông bà ngoại của Bác; nhà thờ chi họ Hoàng Xuân (thuộc cụm di tích Hoàng Trù); nhà ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc; giếng Cốc; lò rèn Cố Điền; nhà cụ cử Vương Thúc Quý - thầy học khai tâm của Bác; nhà thờ họ Nguyễn Sinh; nhà cụ Nguyễn Sinh Nhâm - ông nội của Bác; di tích cây đa, sân vận động Làng Sen; khu trưng bày các hiện vật, tài liệu và nhà tưởng niệm Bác (thuộc cụm di tích Làng Sen); phần mộ bà Hoàng Thị Loan ở Động Tranh trên dãy Đại Huệ và cụm di tích Núi Chung. Toàn khu di tích rộng trên 205 ha, các điểm và cụm di tích cách nhau 2 - 10 km. Nhiều năm qua, nhất là từ năm 1990, khi tổ chức UNESCO của Liên Hiệp quốc tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất của nhân loại”, các đoàn khách trong nước và quốc tế tìm về Kim Liên để tham quan, tưởng niệm, tìm hiểu, nghiên cứu về Người ngày một nhiều thêm. Từ thành phố Vinh đi theo tỉnh lộ 49 đến km 13, du khách sẽ gặp ngã ba Mậu Tài (tên xa là làng Sài - quê hương của cụ Hà Thị Hy, bà nội Bác Hồ). Rẽ trái theo con đường nhựa khoảng hơn 1 km, du khách gặp một làng quê bình dị như bao làng quê Việt Nam, cũng cây đa, bến nước và lũy tre làng- đó là làng Chùa (làng Hoàng Trù) - quê ngoại Bác - nơi Bác đã chào đời. Từ làng Chùa - quê ngoại sang làng Sen - quê nội đi qua hồ sen thơm ngát và giếng Cốc trong vắt. Ngôi nhà tranh mà Bác đã sống thuở nhỏ này do nhân dân trong vùng góp công dựng nên để mừng cụ Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng vào năm 1901. Nằm ẩn dưới rặng tre xanh, bên trong ngôi nhà mộc mạc này là những đồ dùng sinh hoạt của một gia đình nhà nho nghèo: thư án, bút nghiên, ghế ngồi, mâm gỗ... Nơi đây Bác đã sống những năm tháng tuổi thơ và chứng kiến những buổi bình văn hay luận thời cuộc giữa thân phụ Người với bạn bè như nhà ái quốc Phan Bội Châu, nhà nho Vương Thúc Quý... Khi đến cụm di tích Hoàng Trù và Làng Sen, du khách sẽ được cảm nhận đầy đủ hơn về một làng quê Việt Nam, một làng quê xứ Nghệ ở bối cảnh lịch sử thuở thiếu thời của Bác Hồ. Được vào thăm những ngôi nhà hàng xóm một thời từng tối lửa tắt đèn với gia đình Bác, nhà của một cụ đồ nho; ngôi nhà một lương y bốc thuốc Nam với dao cầu, thuyền tán và cây thuốc quanh nhà; nhà một hộ nông dân với cuốc cày, chõng tre, nồi đất, cối xay lúa, giã gạo... Với cảnh quan thân thuộc, dung dị của lũy tre làng, đường đất nhỏ, se sợi, khung cửi, bờ dâu... du khách nghe như văng vẳng đâu đây những câu hò, điệu ví mượt mà. Trước khi lên viếng mộ bà Hoàng Thị Loan du khách sẽ không quên thắp lên mộ cụ Hà Thị Hy - bà nội của Bác - nén nhang thành kính, biết ơn. Lên núi Chung, nơi thuở nhỏ Bác cùng chúng bạn vui chơi, thả diều, đánh trận giả, du khách sẽ được phóng tầm mắt về bốn phương, gần là cố hương Nguyễn Huệ, quê hương của Nguyễn Thiếp, Phan Bội Châu, Lê Hồng Phong, Phạm Hồng Thái, xa hơn chút nữa là vùng đất đã sinh ra Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ... Để giúp du khách, nhất là thế hệ trẻ hiểu rõ hơn chặng đường bôn ba tìm đường cứu nước của Bác Hồ, một khoảng đất rộng dưới chân núi Chung là công viên “Du lịch theo chân Bác”. Những địa danh nổi tiếng trong nước như Bến cảng Nhà Rồng, Pắc Bó, Đền Hùng... và ở nước ngoài như Paris, London, New York... đều có hình mô phỏng tạo sự thú vị cho khách đến thăm. Về với Khu di tích Kim Liên, du khách như để thỏa mãn một niềm khát khao trong đời là tìm về cội nguồn Người lãnh tụ kính yêu của mình để được tiếp thêm sức mạnh, vượt qua khó khăn thử thách. Nhiều vị khách nước ngoài đến đây muốn được có dịp suy ngẫm để cắt nghĩa vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có thể sinh ra trên mảnh đất này và chính mảnh đất này đã cùng cả nước nuôi lớn một con người hiến trọn đời mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, một nhà hoạt động quốc tế lỗi lạc, một nhân cách hoàn hảo. Thế giới đang bước vào một kỷ nguyên mới, nhưng sau lũy tre làng Chùa, làng Sen vẫn còn nguyên những nếp nhà tranh giản dị, mộc mạc, những kỷ vật nhuốm màu thời gian hơn một thế kỷ, giờ đây đã đi vào lịch sử trở thành một tài sản vô giá của quốc gia. Vườn Quốc gia Phong Nha -Kẻ Bàng, điểm du lịch kỳ ảo bậc nhất Việt Nam Quần thể hang động ở Phong Nha-Kẻ Bàng được đánh giá là một trong những cảnh quan đẹp nhất thế giới với các đặc trưng có sông ngầm dài nhất, các hang có chiều cao và rộng nhất, các bãi cát trong hang dài nhất và có thạch nhũ đẹp nhất. Đây cũng có thể coi là thiên đường cho bộ môn hang động học và du lịch hang động. Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng thuộc tỉnh Quảng Bình có tổng diện tích 85.754 ha. Đây là một phần của khu vực núi đá vôi cổ nhất ở châu Á, được tạo lập từ hơn 400 triệu năm về trước, nơi ngưng đọng những giá trị đặc biệt về sự hình thành và phát triển của trái đất. Đồng thời, có nhiều giá trị về đa dạng sinh học với 568 loài thực vật và 876 loài động vật, trong đó có không ít loài được đưa vào sách đỏ của thế giới và Việt Nam. Khu vực này cũng đồng thời là một trung tâm du lịch văn hóa lớn với hệ thống các hang động nổi tiếng, đặc biệt là khu động Phong Nha. Đây là di sản thế giới thứ 5 tại Việt Nam đã được UNESCO chính thức công nhận. Động Phong Nha được hình thành do những kiến tạo địa chất xảy ra trong long dãy núi đá vôi Kẻ Bàng cách đây hàng trăm triệu năm. Động dài 7.729m. Cửa động rộng 20-25m, cao khoảng 10m. Vào sâu trong động Phong Nha hơn 600m là hang Bi Ký với những thạch nhũ tuyệt đẹp màu cẩm thạch, vòm hang rộng, không gian trong hang huyền ảo. Vô vàn những nhũ đá mang dáng vẻ của Đức mẹ Maria, các thiên thần bay lượn, hình những cây thánh giá, những bầy sư tử, cá sấu, và đặc biệt có 2 cột nhũ đá rũ dài từ trên trần hang xuống tận đáy nước. Hang Bi Ký dài khoảng 130m và rộng như một hội trường lớn, phía dưới là một lớp cát mịn làm nền, có lẽ vì vậy mà hang Bi Ký còn có tên là hang Hội Trường.
Khối thạch nhủ kỳ ảo trong động Phong Nha
Rời hang Bi Ký, du khách sẽ sang hang Tiên và hang Cung Đình cùng những cột nhũ đá cao trên 20m được thiên nhiên tạo nên. Đây cũng là hai hang tiêu biểu của động Phong Nha có hệ thống nhũ đá huyền ảo và kỳ vĩ cùng hàng ngàn những kiệt tác được hình thành bởi tạo hoá, với vô số những hình ảnh kỳ lạ và hấp dẫn. Trong hang Tiên, thiên nhiên đã tạo trên vách đá hình dáng những nàng tiên với mái tóc dài, màu vàng óng ả. Hang Cung Đình có nhũ đá giống ngai vàng, được thiên nhiên "chạm trổ" cực kỳ tinh xảo... Nếu gõ nhẹ vào chuỗi thạch nhũ giống hình phím đàn thì người ta tưởng như đang thưởng thức âm điệu của tiếng đàn tơ-rưng trầm bổng âm vang. Tháng 4/1997, một cuộc hội thảo khoa học về di tích danh thắng Phong Nha-Xuân Sơn được tổ chức tại Quảng Bình. Tổ chức BCRA chính thức công nhận Động Phong Nha là một trong 3 hang nước tiêu biểu trên thế giới và là hang động duy nhất ở Việt Nam đạt 7 tiêu chuẩn: 1. Hang nước dài nhất, 2. Cửa hang cao và rộng nhất, 3. Bãi cát và đá rộng đẹp nhất, 4. Hồ ngầm đẹp nhất, 5. Hệ thống thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất, 6. Hang có sông ngầm dài nhất (13.969 m), 7. Hang khô rộng và đẹp nhất. Theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF), Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng là nơi có mức độ đa dạng sinh học cao nhất trong các vùng rừng Việt Nam, với 95% diện tích rừng nguyên sinh trên khối núi đá vôi Kẻ Bàng. Về thực vật, vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng hiện có 140 họ, 427 chi, 751 loài thực vật bậc cao, trong đó có 36 loài quý hiếm, 20 loài được ghi vào sách đỏ Việt Nam. Nhiều loại gỗ quý như lim, gụ, mun, huỳnh... Vườn còn có những cây chò vài trăm tuổi; những cây gùa đường kính gần 5m, cao khoảng 70m. Về động vật, vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng có 32 bộ, 98 họ, 275 giống, 381 loài của 4 lớp động vật có xương sống ở trên cạn. Trong đó, có 66 loài động vật quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam, 23 loài động vật được xếp vào danh sách loài được ưu tiên bảo vệ trên thế giới. Có nhiều loài quý hiếm như voọc, gấu, hổ, sao la, gà lôi lam, vượn bạc má, rùa vàng... các loài linh trưởng và những loài thú mới phát hiện như mang lớn. Phong Nha-Kẻ Bàng là một khu du lịch hết sức hấp dẫn với hệ thống hang động đã phát hiện có tổng chiều dài khoảng 106.000m, và còn nhiều hang động chưa được thám hiểm. Hệ thống hang động kỳ thú này kết hợp với hệ sinh thái rừng đa dạng trên núi đá vôi và sông suối tạo nên nhiều cảnh quan độc đáo thu hút các nhà nghiên cứu khoa học và khách du lịch. Phong Nha-Kẻ Bàng còn có hàng chục đỉnh núi cao trên 1.000 mét, hiểm trở, chưa từng có vết chân người, là các điểm hấp dẫn thể thao leo núi và thám hiểm. Điển hình là các đỉnh Co Rilata cao 1.128 mét, Co Preu cao 1.213 mét. Xen kẽ giữa các đỉnh núi trên 1.000 mét là những thung lũng phù hợp cho du lịch sinh thái. Ý thức được vị thế của Vườn Quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng, nhất là vẻ đẹp hấp dẫn của động Phong Nha, tỉnh Quảng Bình đã đầu tư xây dựng hơn 50km đường nhựa từ quốc lộ 1A đến bến Xuân Sơn. Thiết kế và lắp đặt hệ thống chiếu sáng trong hang động, mở đường lên động Tiên Sơn (động Phong Nha khô) và hệ thống nhà hàng, khách sạn để thu hút khách du lịch. Tỉnh cũng đã triển khai thêm một số dự án lớn đầu tư cho Khu du lịch Phong Nha như Công trình cáp treo với tổng vốn đầu tư 25 tỷ đồng; xây dựng khu dịch vụ với kinh phí 10 tỷ đồng; đầu tư 800 triệu đồng đóng mới 2 tàu để đưa khách tham quan động. Mở tuyến du lịch sinh thái lên động Tối, thác Trộ Mợng, eo Gió, khu Nước Mọc, Xây dựng vùng rừng lâm viên... Đồng thời, tỉnh đã giúp đỡ nhân dân trong vùng tham gia các hoạt động kinh tế, dịch vụ, bảo vệ môi sinh, môi trường và phát triển kinh tế-xã hội địa phương. Trong những năm qua, khu du lịch Phong Nha-Kẻ Bàng đã trở thành điểm du lịch yêu thích của nhiều du khách trong và ngoài nước. Phố cổ Hội An - Di sản văn hóa thế giới Hội An nằm bên bờ sông Thu Bồn. Nơi đây xưa kia đã có một thời nổi tiếng với tên gọi Faifoo mà các thương nhân Nhật Bản, Trung Quốc, Bồ Đào Nha, Italia... đã biết đến từ thế kỷ 16, 17. Từ thời đó, thương cảng Hội An đã thịnh vượng, là trung tâm buôn bán lớn của vùng Đông Nam Á, một trong những trạm đỗ chính của thương thuyền vùng Viễn Đông. Hội An có những dãy phố cổ gần như nguyên vẹn, đó là loại nhà hình ống xuyên suốt từ phố nọ sang phố kia. Trong đó có một dãy phố nằm sát ngay bờ sông Hội An. Nhà ở đây toàn bằng gỗ quý, trong nhà treo hoành phi, câu đối, cột nhà trạm trổ hoa văn rất cầu kỳ... Hội An là một bảo tàng sống, khu phố cổ đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hoá thế giới.
Du khách tham quan phố cổ Hội An
Thành phố nhỏ bé nằm trên đất Quảng Nam này từng là nơi chứng kiến hai cuộc giao thoa văn hoá lớn trong lịch sử dân tộc Việt: Lần thứ nhất cách đây hơn 5 thế kỷ, khi nước Đại Việt tiến về phương Nam mở mang bờ cõi, và lần thứ hai cách đây hai thế kỷ, khi người phương Tây theo các chiến thuyền và thương thuyền đặt chân lên mảnh đất này với ý đồ truyền bá và thôn tính. Cả hai sự kiện lớn đó đều kéo theo tương tác văn hoá lớn lao và nền văn hóa Việt đã vượt qua thử thách đồng hoá để tự cải biến và tồn tại cùng thời cuộc. Giờ đây, du khách tới Hội An, ngoài việc khám phá sự bình dị chân thật trong tâm hồn người dân phố Hội, sẽ mất nhiều thời gian chiêm ngưỡng vẻ đẹp cổ kính và tĩnh lặng của các mái ngói phủ rêu xanh mướt và nét chạm trổ tinh vi trong những căn nhà gỗ đã tồn tại từ hơn ba trăm vòng quay xuân hạ thu đông. Bước chân vào khu phố cổ, du khách sẽ ngỡ ngàng trước một thế giới biệt lập, tách khỏi mọi dòng chảy và sức phá huỷ của thời gian. Không có tiếng động cơ gầm rú cũng chẳng có những thương hiệu rực rỡ đèn màu. Tất cả đã lùi xa sau lưng, cả không gian và thời gian đều lắng đọng trong những nếp nhà gỗ cổ xưa. Cầu Chùa, dãy nhà cổ hai tầng quay lưng phía bến sông Hoài, Hội quán Quảng Đông, Phúc Kiến... đang lặng lẽ tồn tại để con người hoài niệm về một thời quá khứ. Đặc biệt, khu phố cổ mang một vẻ lãng mạng sâu lắng và bình yên dưới ánh đèn lồng huyền ảo mỗi đêm 14 âm lịch hàng tháng. Xưa kia, nếu như người Việt quen dùng đĩa đèn dầu lạc, thì người Nhật Bản và Trung Hoa đã đưa tới Hội An thói quen sử dụng đèn lồng. Sáng kiến khôi phục việc thắp đèn lồng thay cho ánh sáng điện từ mùa thu năm 1998 đã mang lại hiệu quả không ngờ ngay từ buổi đầu tiên. Vào mỗi đêm 14 âm lịch, mọi sinh hoạt của thành phố bình yên này được quay trở về với tập quán của hơn 300 năm trước, và khu phố cổ nằm trong giới hạn của bốn con đường Trần Phú, Nguyễn Thái Học, Lê Lợi, Bạch Đằng đã hàng loạt tắt đèn và treo trước hiên nhà những ngọn đèn lồng huyền ảo. Dù toả sáng nhờ ngọn điện thông thường, song ánh sáng của đèn lồng mờ dịu và phảng phất dấu ấn của thời gian xưa cũ. Những chiếc đèn tròn, lục lăng theo phong cách Trung Hoa treo dưới mái hiên và hai bên cửa ra vào, đèn quả trám hoặc ống dài kiểu Nhật Bản phất giấy trắng lơ lửng dọc theo hàng cột, đèn trụ vuông, đèn quả trám to nhỏ các cỡ... tất cả đã tạo lên một thế giới lung linh, huyền ảo. Cường độ ánh sáng giảm đi, song chất men say của thành phố lãng mạn đã bốc mạnh trong mỗi con người khi đi qua phố cổ. Trong ngôi nhà cổ rêu phong, bóng người phụ nữ áo dài thời trước cặm cụi làm việc dưới ánh đèn lồng được tạo thành từ chiếc nơm cá giản dị, bên vỉa hè, hai người già râu tóc bạc phơ đang chìm đắm vào suy nghĩ với ván cờ tướng thắp sáng bởi ngọn nến lung linh... Dường như con người đang được sống với dĩ vãng khi mà những phiền toái của cuộc sống hiện tại chưa hiện hữu. Trong bầu không khí cổ tích đó, hãy kiểm nghiệm sự hiện hữu bằng việc nếm một vài món ăn phong vị xứ Quảng như bánh Bo, bánh Vạc, Cao lầu tại các nhà hàng còn giữ nguyên hình ảnh đầu thế kỷ. Tại tiệm ăn FaiFo trên đường Trần Phú, những chiếc đèn lồng nhỏ xíu hình dáng cổ điển chiếu một nguồn ánh sáng vàng ấm áp, hoà điệu cùng cặp đèn lớn có dán lời cầu ước chữ Hán theo phong tục cổ xưa trước mái hiên. Độc đáo hơn là cách bài trí của tiệm cafe có tên "Treated". Tại đây, người chủ đã khoét thủng trần gỗ và lồng vào những chiếc rá tre vo gạo bình dị. Hàng lỗ thủng đều đặn của rá tre đã tạo ra một nguồn ánh sáng ngộ nghĩnh và độc đáo. Có phải người chủ nào cũng đủ cam đảm khoét thủng trần gỗ của nhà mình ra ? Hiện diện trên phố Hội An là vô số các cửa hàng bày bán các loại đèn lồng làm kỷ niệm. Tuỳ theo chất liệu vải bọc ngoài mà ngọn đèn đưa tới những loại ánh sáng khác nhau. Đó có thể là màu đỏ may mắn, màu vàng tươi vui, mầu gấm huyết dụ kiêu sa hay sắc xanh lãnh lẽo. Tuy nhiên khó so sánh được với những chiếc đèn lồng có tuổi hàng thế kỷ đang được các gia đình sinh sống lâu đời ở đây gìn giữ và chỉ chưng ra trong đêm hội hoa đăng. Những ngọn đèn này được chế tác từ gỗ quý, chạm trổ cầu kỳ và trên mỗi tấm kính là một tác phẩm hội họa thật sự. Các tích truyện cổ nổi tiếng được nghệ nhân xưa vẽ trên kính, sinh động và hoàn hảo như một bức tranh đắt giá. Mỗi khi ngọn nến bên trong toả sáng, cảnh mây trắng, trời xanh hoặc nước biếc sẽ liên tục quay tròn, hắt bóng các chi tiết lên mặt kính. Khung cảnh và ánh sáng kỳ ảo trong khu phố cổ quyện với giọng ca bài chòi, hò khoan, giã gạo... vẳng lên từ con thuyền đậu dưới bến sông, dưới mái hiên, nơi đầu phố... tạo ra sức cuốn hút kỳ lạ đối với du khách. Không quá trang nghiêm như Cố đô Huế, không quá sôi động như chợ Lớn, nét cổ truyền nơi đây mang một vẻ thuần khiết, thu hút những tâm hồn ưa chuộng lãng mạn của những ngày xa xưa. Cồng chiêng Tây Nguyên Văn hoá cồng chiêng được phát triển từ nền văn hoá đồng thau của dân tộc (mà đại diện tiêu biểu là trống đồng ra đời cách đây 3.000 năm) là loại hình nghệ thuật gắn với lịch sử văn hoá của các dân tộc thiểu số sống dọc Trường Sơn trên Tây Nguyên. Dân tộc Tây Nguyên có hai loại nhạc cụ chính là cồng và chiêng. Cồng làm bằng đồng có cái núm ở giữa, còn nếu phẳng, không có núm thì gọi là chiêng.
Biểu diễn cồng chiêng Tây Nguyên
Cồng chiêng được xem như một vật thiêng, là phương tiện để con người giao lưu với những bậc vô hình, là sợi dây nối kết giữa người trần và các đấng linh thiêng. Do đó âm nhạc ở đây không đơn thuần là nghệ thuật mà có chức năng phục vụ một sự kiện đặc biệt trong xã hội hoặc trong đời sống hàng ngày của dân gian. Hầu như mỗi sinh hoạt trong bộ tộc đều dính liền với nét nhạc. Lúc đứa trẻ mới lọt lòng thì già làng sử dụng cái cồng xưa cổ nhất đến bên giường đánh lên để cho những âm thanh đầu tiên lọt vào tai đứa bé là tiếng của bộ lạc, khẳng định nó là một phần của cộng đồng bộ tộc. Khi đứa trẻ lớn lên thì mỗi giai đoạn của đời sống đều gắn liền theo tiếng cồng chiêng, từ việc đồng áng như gieo mạ, gặt lúa; cho đến những buổi gặp gỡ nam nữ, cuộc chia ly hay tang lễ... đều có những bài bản riêng. Trong khi cồng chiêng các nước khác gần như theo một hệ thống cố định (chẳng hạn như Indonesia gồm 5 loại nhạc khí) thì biên chế của cồng chiêng Tây Nguyên rất đa dạng. Dàn cồng chiêng có thể chỉ đơn giản gồm 2 chiếc cồng, cho đến dàn 9,12,15 chiếc cồng và chiêng. Mỗi nhạc công sử dụng một cồng. Trong những lễ hội quan trọng còn có thêm cả trống. Người đánh cồng chiêng Tây Nguyên luôn di động, còn động tác thì đa dạng như nghiêng mình, cúi người, khom lưng ... Khi đánh cồng, bàn tay mặt của nhạc công vỗ vào núm cồng như xoa dịu, còn bàn tay trái nắm ở bên trong cũng tham gia biểu diễn với nhiều cách, hoặc nắm vào vành hoặc bóp vành rồi buông ra, giống như cách nhấn nhá trong các loại đàn dây hay cách ém hơi trong kỹ thuật hát. Thậm chí có khi nhạc công đeo thêm chiếc vòng để khi lắc tay thì chiếc vòng đụng vào mặt trong phối hợp với tiếng gõ bên ngoài. Đó là những kỹ thuật tinh vi mà một người bình thường khó nhận ra được Ngoài ra còn có cách đánh chiêng với dùi làm bằng gỗ cứng hay mềm khác nhau tùy theo dân tộc. Có thể gõ vào giữa mặt chiêng hay đánh ngoài rìa tùy theo bài bản. Người Ê Đê đa số sử dụng loại dùi cứng tạo nên tiếng vang rất to nhưng lại có nhiều tạp âm. Người Bahnar thường sử dụng dùi làm bằng cây sắn là loại gỗ mềm hơn, tuy nét nhạc không vang bằng nhưng âm cơ bản nghe rất rõ. Loại dùi thứ ba làm bằng gỗ thường có bọc thêm một lớp bên ngoài (xưa kia người ta sử dụng da tinh hoàn của trâu, bò hoặc dê, về sau được bọc bằng vải rồi đổi sang bọc bằng cao su). Dùi loại này phù hợp nhất vì tạo nên âm thanh rất hay. Tên gọi của những chiếc cồng chiêng cũng rất phong phú, có khi được đặt dựa theo âm thanh nhạc khí phát ra, có khi là tên gọi theo vị trí của nó trong dàn nhạc. Đặc biệt hầu hết những chiếc cồng phát ra âm thanh thấp - vốn là âm cơ bản - mang tên "mẹ". Trong những dàn có từ 9 cồng chiêng trở lên thì có thêm cồng "cha" bên cạnh cồng "mẹ", tiếp theo là các cồng con, cồng cháu... tức hình thành hệ thống gia đình với cồng mẹ luôn luôn đứng trước cồng cha, phù hợp với chế độ mẫu hệ của người Tây Nguyên. Khi biểu diễn, hai chiếc cồng mẹ và cồng cha đánh ra âm thanh trầm gần giống nhau để làm nền cho cả dàn nhạc. Kế tiếp là 3 cồng con cùng đánh một lượt với nhau thành một hòa âm, những chiếc còn lại thì đánh so le theo thứ tự trước - sau, mau - chậm theo đúng qui định, phối hợp với nhau thành ra nét nhạc. Chưa một nước nào hay vùng nào mà có số lượng cồng chiêng nhiều như ở Tây Nguyên nước ta. Chỉ trong năm tỉnh Đắc Nông, Đắc Lắc, Gia Lai, Kon Tum và Lâm Đồng với gần 20 dân tộc ít người, vậy mà trước đây đã có tới trên dưới 6.000 dàn cồng. Với thời gian, một số lớn đã bị thất lạc, do vậy, sự kiện UNESCO chính thức công nhận cồng chiêng Tây Nguyên là kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại vào năm 2005 thực sự là một tin vui lớn lao cho tất cả những ai có tấm lòng yêu mến vốn cổ, yêu mến Tây Nguyên. Quyến rũ Vịnh Vân Phong Vịnh Vân Phong nằm ở huyện Vạn Ninh và huyện Ninh Hoà (Khánh Hòa), cách thành phố Nha Trang chừng 80 km về hướng Bắc. Nếu đi theo đường biển vượt qua vịnh Nha Phu để vào Vịnh Vân Phong thì khoảng cách chỉ bằng một nửa và còn được chiêm ngưỡng biết bao phong cảnh thuỷ tú sơn kỳ. Vịnh Vân Phong có tổng diện tích khai thác là 15.000 ha, gồm 8.000 ha mặt nước và 7.000 ha mặt đất. Bán đảo Hòn Gốm dài gần 30 km chạy từ đèo Cổ Mã (nam đèo Cả) ở Đại Lãnh, kéo dài theo hướng Đông Nam, trông như cánh tay bao bọc lấy vịnh nước sâu.
Một góc vịnh Vân Phong
Bên trong vịnh còn có hàng chục đảo nhỏ có tên hoặc chưa đặt tên, có Hòn Lớn nằm ở cửa ra vào trông như đảo tiền tiêu, vừa canh gác, vừa là tấm bình phong chắn sóng to, gió lớn trong mùa mưa bão. Vịnh Vân Phong có hai cửa biển là cửa Vạn và cửa Giã. Cửa Vạn được người Pháp gọi là Port Dayot ở tại Đầm Môn, trên bán đảo Hòn Gốm. Cửa Giã thì nằm tại Vạn Giã, là nơi ghe thuyền neo đậu, tới lui buôn bán sầm uất. Thị trấn Vạn Giã là tên ghép của hai cửa Vạn và cửa Giã. Vịnh Vân Phong được xem là vịnh nước sâu tự nhiên rất lớn, Hiệp hội Du lịch thế giới đã đánh giá Vịnh Vân Phong là một trong những thắng cảnh đẹp nhất ở châu Á và Viễn Đông. Vịnh Vân Phong có những bãi tắm tuyệt đẹp, hoang sơ như Bãi Tây, Bãi Me, Bãi Búa, Bãi Lách, Bãi Xuân Đừng... Cách Đầm Môn không xa là làng chài Khải Lương, điểm cực đông của Việt Nam, là nơi đầu tiên trong cả nước nhìn thấy mặt trời mọc mỗi ngày. Nếu đáp du thuyền tham quan trong Vịnh, lữ khách sẽ tiếp tục khám phá những điều bất ngờ hiện ra trước mắt với biết bao cảnh trí thơ mộng thần tiên, với một bên là núi đồi, bờ bãi, những dòng suối róc rách gõ nhịp, len lỏi qua các ghềnh đá, một bên là nước biển trong xanh. Tại Đầm Môn, còn có những đồi cát quyến rũ, chẳng khác nào những đồi cát nổi tiếng ở Mũi Né - Phan Thiết. Nếu đi ra xa bờ một chút, ta gặp những rạn san hô ngầm muôn màu muôn vẻ nằm chỉ cách mặt nước từ 3-5 m, tạo nên những hang động kỳ ảo ở thuỷ cung, là lợi thế cho ngành du lịch lặn biển. Nói đến sinh vật biển, Vịnh Vân phong có đến 350 loài san hô quý hiếm và hơn 270 loài tôm cá, là ngư trường hấp dẫn thu hút các nhà khoa học đến đây tham quan, nghiên cứu. Tiềm năng kinh tế ở Vịnh Vân Phong có thể nói là to lớn. Năm 1977, Bộ Giao thông Vận tải đã quyết định nghiên cứu xây dựng tại đây cảng nước sâu lớn nhất Việt Nam. Đến năm 1997, Nhà máy đóng tàu Hyundai Vinashin đã khởi công, và con đường nối liền Quốc lộ 1A với vùng đất nghèo nàn Ninh Diêm, Ninh Phước hoàn thành... Vân Phong hiện có 3 cảng cá và 2 cảng vận chuyển hàng hoá. Tiềm năng kinh tế đã biến Vân Phong thành đặc khu kinh tế đa dạng, từ du lịch sinh thái đến công nghiệp tàu biển, sản xuất nguyên vật liệu. Nhờ có vị trí đặc biệt trên bản đồ thương mại - hàng hải quốc tế, Vân Phong đang hướng về tương lai với nhiều triển vọng tốt đẹp....

(Tổng hợp từ các báo trong nước)



 {name} - {time}
{body}
 {name} - {time}
{body}

0 bình luận mới nhất

Ý kiến của bạn sẽ được biên tập trước khi đăng. Vui lòng gõ tiếng Việt có dấu

Xem thêm:

Du lịch thác tự nhiên miền Tây Quảng Trị
02:50 09/12/2024

Miền núi phía Tây Quảng Trị là nơi có cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, đặc biệt là rừng, núi xen kẽ hệ thống thác, động đa dạng và nguyên sơ. Nơi đây, hội tụ đầy ...

Nối gần những miền xa
22:30 30/12/2023

Trên trục đường Xuyên Á của tuyến Hành lang kinh tế Đông-Tây từ Đông Bắc Thái Lan qua Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo (Quảng Trị, Việt Nam) có nhiều điểm du lịch hấp ...

Lên miền Tây Bắc
23:09 12/04/2023

Bẵng đi một thời gian khá lâu, nay tôi mới có dịp trở lại miền Tây Bắc- trở lại với Him Lam, Hồng Cúm, Mường Thanh...,nơi mà cách đây 69 năm về trước quân và ...

Khám phá Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà
10:42 24/04/2024

Vườn quốc gia Bidoup-Núi Bà là 1 trong 5 Vườn quốc gia (VQG) lớn nhất Việt Nam. Vườn lấy tên theo 2 ngọn núi cao nhất ở Lâm Đồng (Bidoup 2.287m và Núi Bà cao ...

Thao thức trên con đường di sản miền Trung
23:20 11/02/2024

Mùa xuân 2024 này, chương trình du lịch “Con đường di sản miền Trung” tròn 20 năm hình thành và phát triển. Chặng đường đã qua, chương trình đem lại thành công ...

Niềm vui trong những căn nhà mới

Niềm vui trong những căn nhà mới
10 giờ trước

QTO - Đã nhiều ngày trôi qua, nhưng vợ chồng ông Hồ Xăn và bà Hồ Thị Thăm (thôn Kỳ Nơi, xã Lìa, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị) vẫn ngỡ như đang sống...

Nghề “tay trái” cho thêm thu nhập và niềm vui

Nghề “tay trái” cho thêm thu nhập và niềm vui
01:27 27/10/2008

Gắn bó với nghề dạy học tại Trường THCS thị trấn Lao Bảo đã 23 năm, cô giáo Nguyễn Thị Châu Loan, quê ở tỉnh Quảng Bình đã chọn Hướng Hóa làm quê hương thứ hai. Là một giáo...

Khi người người lính trở về

Khi người người lính trở về
04:45 26/10/2008

Với bản chất “Bộ đội cụ Hồ” đã một thời chiến đấu, trải qua nhiều khó khăn, thử thách, các CCB đã không quản ngại vất vả, khó khăn của cuộc sống đời thường, cùng với gia đình,...

Nước sạch cho vùng trũng Hải Lăng

Nước sạch cho vùng trũng Hải Lăng
02:43 26/10/2008

Về vùng trũng Hải Lăng mùa này chẳng khác nào đến miền Tây Nam Bộ mênh mang sông nước. Cũng kênh rạch chằng chịt, cũng bến nước cập kề bên con đường dẫn về những thôn làng bình...

Khuyết tật vẫn quyết chí học đại học

Khuyết tật vẫn quyết chí học đại học
02:09 26/10/2008

Không được như những sinh viên khác, các em người thì bị bệnh nặng, người thì bị khiếm khuyết cơ thể, thế nhưng trong thâm tâm các em, được đi học là niềm hạnh phúc. * Nỗi đau...

Thời tiết

29°C - 34°C
Có mây, không mưa
  • 30°C - 37°C
    Ít mây, trời nắng nóng gay gắt
  • 30°C - 36°C
    Ít mây, trời nắng nóng
POWERED BY
Việt Long