Nơi neo đậu tâm hồn...

  • 07:14, 12/09/2025
  • icon facebook
  • icon youtube
  • icon titok

QTO - Làng tôi nép mình bên dòng sông Mai, còn gọi là kênh Kịa, hiền hòa, như dải lụa mềm vắt ngang giữa cánh đồng. Dòng sông ấy không chỉ mang phù sa bồi đắp ruộng đồng mà còn in dấu bao kỷ niệm. Phía sau làng là bãi cát trắng trải dài đến vô tận-thứ cát vừa khắc nghiệt, vừa đằm thắm như chính con người quê tôi, mộc mạc mà nghĩa tình. Làng là nơi neo đậu tâm hồn tôi...

Tôi lớn lên trong lời ru của mẹ và những câu ca dao về làng cứ dìu dặt với thời gian: Nước Tượng Sơn vừa trong vừa mát/Đường Tượng Sơn lắm cát dễ đi. Tôi không biết làng có từ bao giờ, lớn lên chỉ nghe người già kể lại, đất Tượng Sơn được khai thiên lập địa bởi bốn ông tổ mang họ Trần, Ngô, Nguyễn, Phạm. Họ chọn mảnh đất tựa lưng vào động cát, hướng mặt ra cánh đồng, dòng sông, thuận cho trồng trọt, chăn nuôi. Từ bốn vị tiền hiền mà hình thành nên những dòng tộc gắn bó keo sơn, cùng nhau vun đắp nên hồn cốt của một làng quê trù phú.

Đầu làng có một vũng nước lớn, gọi là giếng Ngọc Sao, quanh năm đầy nước, dù mùa hè nắng cháy vẫn không bao giờ cạn. Người xưa truyền rằng giếng ấy không đáy, có năm lũ lụt lá dong từ đâu dưới giếng trồi lên. Bây giờ tôi nghĩ khác, giếng Ngọc Sao có mạch nước ngầm nối liền với khe suối nào đó trên rừng nên lũ lụt mới sinh ra hiện tượng ấy. Giếng Ngọc Sao trong vắt, từ lòng cát tuôn trào lên, ngọt dịu. Nước chảy thành dòng khe nhỏ, tưới mát cho ruộng đồng. Bọn trẻ chúng tôi đi học về, lấy tay vụm nước đưa lên uống mát lạnh, sảng khoái đến vô cùng.

Làng Tượng Sơn (nay thuộc phường Ba Đồn) nhìn từ trên cao- Ảnh: H.S
Làng Tượng Sơn (nay thuộc phường Ba Đồn) nhìn từ trên cao- Ảnh: H.S

Giữa và cuối làng có hai cái giếng cổ hình vuông-gọi là giếng làng. Giếng được xây bằng những phiến đá lớn, rêu phong bám đầy nhưng nước thì trong vắt. Nghe các cụ bảo, giếng có từ thời người Chăm. Không biết thực hư thế nào, nhưng nước giếng mát ngọt và chẳng bao giờ cạn. Những năm hạn hán, giếng cung cấp nước cho cả làng và người dân quanh vùng. Giếng làng trở thành nơi tụ họp, sinh hoạt cộng đồng.

Tôi nhớ những đêm trăng, khi cả làng chìm trong tĩnh lặng, thì giếng làng lại trở nên vui vẻ, rộn ràng. Từng tốp người quảy đôi thùng nước, những chiếc gầu thả xuống kéo lên, tiếng nước rơi lõa xõa hòa cùng tiếng nói cười của nam thanh nữ tú. Và từ trong đám đông, những điệu hò mượt mà, đằm thắm cất lên, khi thì da diết, bổng trầm như nỗi lòng người con gái, lúc lại dí dỏm tươi vui của những chàng trai. Giếng làng trở thành chốn hẹn hò, là nơi bắt đầu cho những mối tình nên duyên chồng vợ, là chứng tích “một thời hoa đỏ” của bao chàng trai chia tay người yêu để cầm súng lên đường theo tiếng gọi của non sông. Giờ đây, giếng làng vẫn còn đó, vẫn trầm ngâm giữa trời, như ôm ấp, nhớ nhung những người con của làng qua bao thế hệ, nương náu khắp bốn phương trời.

Người ta nói, tuổi già thường hay nghĩ về quá khứ. Mỗi lần đứng ngắm nhìn giếng làng hay dòng sông quê là lòng tôi trào dâng bao nguồn cảm xúc. Sông quê tôi nay đã khác xưa nhiều, hai bên bờ đã được xây kè, lát gạch, tạo công viên, vóc dáng hiện đại. Nhưng hình ảnh về con sông xưa cũ thì vẫn cứ đeo bám mãi trong tôi suốt cả cuộc đời. Tôi nhớ như in những buổi chiều hè, lũ trẻ chúng tôi ùa ra sông tắm, tiếng cười nói vang cả một khúc trời. Những đêm trăng sáng, mọi người rủ nhau đi đập mò (đánh dậm), bơi lội bì bõm giữa làn nước mát rượi. Trưa hè oi ả, cùng bạn bè lặn mò ngao, bắt hến, bàn tay nhăn nheo vì ngâm nước nhưng ánh mắt thì cứ rạng ngời.

Dòng nước vẫn lặng lẽ trôi, như chưa từng có tháng năm nào đi qua. Người quê tôi thì vẫn nhớ và mang theo những câu chuyện kể về dòng sông. Chuyện kể rằng: Ngày xưa con gái làng Tượng Sơn xinh đẹp, duyên dáng lại quen việc nội trợ, giỏi chuyện bán buôn nên có nhiều thanh niên các xã khác đến tìm hiểu để lấy làm vợ. Một hôm có người ở làng Trung Thuần về hỏi vợ làng Tượng Sơn, khi đoàn người tới cầu Kênh Kịa, họ nhà gái ra đón ở đấy, một vị cao niên bước lên chào hỏi rồi ra vế thách đối: “Chân dậm, tay mò bơn hói Kịa”.

Hói Kịa là tên gọi con sông chảy dọc theo làng; bơn là tên một loài cá có hình lá vông, khum khum dẹt dẹt. Câu đối ra như vậy là vừa nghịch lại vừa ác ý. Mọi người trong đoàn nhà trai đang lúng túng thì cụ Nguyễn Hàm Ninh từ sau bước lên ứng khẩu: “Má kề, miệng ngậm bống khe Giang”. Khe Giang là tên một con suối ở làng Trung Thuần, có nhiều cá bống. Một vế đối tài tình, vừa hài hước, vừa đậm chất văn chương. Họ nhà gái thán phục, hôn lễ được tổ chức linh đình. Câu chuyện truyền đời, trở thành niềm tự hào của người quê tôi mỗi lần nhắc đến.

Làng tôi không có núi cao, nhưng có động cát mênh mông và rừng cây chắn gió, chắn cát; vươn mình bền bỉ, ngạo nghễ qua những mùa mưa bão, che chở cho làng qua bao cuộc chiến tranh. Những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, người quê tôi theo tiếng gọi của Bác Hồ: “Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm…”, đoàn kết một lòng, rào làng chiến đấu, lập nên những chiến công vẻ vang cùng nhân dân cả nước. Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, làng tôi trở thành điểm trung chuyển quan trọng của bến phà Gianh; rừng cây cổ thụ đá lả, rừng trâm bầu xóm lòi Miếu, Trầm Nghiêng, Trốc Lét là nơi che giấu vũ khí, điểm dừng chân của bộ đội vào Nam chiến đấu. Rừng cây, đồi cát quê tôi chứng kiến bao chiến sĩ được làm lễ truy điệu sống trước lúc lên đường. Làng tôi cũng như bao làng quê khác của đôi bờ sông Gianh trở thành trọng điểm đánh phá của máy bay, tàu chiến Mỹ. Cầu kênh Kịa nối liền Quốc lộ 12A lên tuyến đường Trường Sơn, mỗi lần bị máy bay Mỹ đánh sập, người quê tôi, vùng đất Ba Đồn tình nguyện dỡ nhà làm cầu với khẩu hiệu: “Xe chưa qua nhà không tiếc, đường chưa thông không tiếc máu xương”...

Đất nước hòa bình thống nhất. Làng quê đẹp giàu, đổi mới. Giờ đây thực hiện chủ trương sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp , làng tôi không còn là một đơn vị xã, phường riêng biệt, mà hòa chung vào một địa bàn rộng lớn hơn-khởi đầu cho một kỷ nguyên phát triển. Nhưng dù tên gọi có thay đổi, trong lòng mỗi người dân quê tôi, làng Tượng Sơn vẫn là nơi neo đậu tâm hồn. Đó là nơi mỗi bước chân đi xa đều nhớ về, vẫn luôn đau đáu một niềm thương, nỗi nhớ; vẫn luôn giữ gìn tinh túy của bao đời và sẽ còn ngân vang trong những câu ca dao cháu con mai sau tiếp nối!

Trần Đình

tin liên quan

Giữ mạch nguồn văn hóa quê hương
Giữ mạch nguồn văn hóa quê hương
QTO - Quảng Trị không chỉ là mảnh đất thiêng liêng ghi dấu những trang sử hào hùng, mà còn là nơi lưu giữ kho tàng văn hóa phi vật thể vô giá với các làn điệu dân ca, dân vũ đặc sắc. Để gìn giữ những giá trị của di sản, Đoàn Nghệ thuật truyền thống (NTTT) tỉnh đã có nhiều nỗ lực trong việc sưu tầm, phục dựng, sáng tạo, đưa NTTT vào các chương trình biểu diễn, nhằm lan tỏa mạch nguồn văn hóa dân tộc giữa đời sống hiện đại.
Ghé qua nhà cũ
Ghé qua nhà cũ
QTO - Chiều nay, tôi bất chợt ghé qua ngôi nhà cũ, nơi tôi đã từng gắn bó suốt những năm tháng tuổi thơ. Con đường dẫn vào nhà vẫn như xưa, chỉ có hàng cây ven đường cao hơn, những nhánh lá rậm rì vươn dài che lấp bầu trời. Cảm giác vừa quen, vừa lạ khiến bước chân tôi chậm lại. Cánh cổng sắt ngày nào giờ đây đã hoen gỉ, lớp sơn xanh cũ kỹ bong tróc từng mảng. Tôi đưa tay chạm nhẹ vào cánh cửa, ký ức chợt ùa về.
Chương trình chính luận nghệ thuật 'Theo dấu chân người mở cõi'
Chương trình chính luận nghệ thuật 'Theo dấu chân người mở cõi'
QTO - Nhân kỷ niệm 500 năm Ngày sinh Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1525-2025), tối 10/9, tại quảng trường xã Triệu Phong, Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, UBND xã Triệu Phong, Báo và PTTH Quảng Trị phối hợp tổ chức chương trình chính luận nghệ thuật với chủ đề “Theo dấu chân người mở cõi”.