Lòng tôi thành cánh gió lung linh

  • 07:22, 24/11/2025
  • icon facebook
  • icon youtube
  • icon titok

QTO - Nhà thơ Xuân Hoàng, tên thật là Nguyễn Đức Hoàng, sinh năm 1925 tại Đồng Hới, quê gốc Phước Hòa-Tuy Phước-Bình Định cũ. Ông thuộc thế hệ văn nghệ sĩ bắt đầu sáng tác trong thời kỳ Cách mạng tháng Tám năm 1945 và trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến. Nhà thơ là một trong số những người tham gia sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam từ Đại hội lần thứ nhất năm 1957, sáng lập Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình cũ năm 1961.

Nhà thơ Xuân Hoàng có gia tài tác phẩm khá đồ sộ, với 14 tập thơ, trường ca và 4 tập văn xuôi. Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2007.

Năm 2025, tròn 100 năm ngày sinh nhà thơ Xuân Hoàng, hơn 20 năm ông rời cõi tạm. Thời gian càng ngày càng lùi xa, nhưng tác phẩm của ông chưa hề cũ, tình cảm văn nghệ sĩ và độc giả khắp nơi dành cho ông không hề nhạt phai. Sự nghiệp sáng tác của Nhà thơ Xuân Hoàng gắn liền với những bước chuyển mình của lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.

Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông có nhiều tác phẩm tái hiện chân thực và sinh động hình ảnh quê hương, đời sống lao động sản xuất và chiến đấu của Nhân dân, như “Người liên lạc miền bể”, “Trạm đồng bằng”, “Qua Bố Trạch”, “Tiếng hát sông Gianh”…: “Ai đi qua Quảng Bình/Hẳn từng quen huyện Bố/Huyện khắc khổ: Dân nghèo, đất đỏ/Dưới chân Ba Rền/Thăm thẳm một màu xanh/Chợ Bố Trạch sắn nhiều gạo ít/Nâu Ba Rền củ tốt hơn khoai/Sông Dinh nước cạn bãi bồi/Đồng khô đồng cạn, mùa vơi mùa cằn” (Qua Bố Trạch). Đó là hình ảnh của huyện Bố Trạch năm 1950.

Đất nghèo nhưng lòng người yêu nước, hiền lành mà quyết liệt, lặng lẽ mà sục sôi. “Giặc chiếm đóng!/Cười gằn thách thức!/Người dân nghèo Bố Trạch đứng lên: Củ khoai, luống đất đang hiền/Bỗng trỗi dậy, Ba Rền hoen ráng đỏ”. Trường ca “Tiếng hát sông Gianh” ghi lại cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của Nhân dân đôi bờ dòng sông lịch sử: “Bên kia sông hàng tre chờ lặng lẽ/Nắng ngập bờ không một bóng dân quân/Làng hiền từ... mà bí mật lạnh lùng...”, “Từng loạt một, súng bắt đầu lên tiếng/Đò chồng chềnh, tên lái ngã quay lơ/ Đạn trên đồi vãi xuống như mưa/Đò cứ đắm lính trên đò cứ chết...”.

Trang bìa Tuyển tập Xuân Hoàng - Ảnh: internet
Trang bìa "Tuyển tập Xuân Hoàng" - Ảnh: internet

Trong những năm kháng chiến chống Mỹ (1965-1975), nhà thơ Xuân Hoàng có thêm rất nhiều tác phẩm mang âm hưởng thời đại. Các tập thơ: Miền Trung (1967), Hương đất biển (1971), Biển và bờ (1976), Dải đất vùng trời (1976), tập trung khắc hoạ hình ảnh đời sống thời chiến và khí phách can trường của quân dân Quảng Bình.

Trong nhiều tác phẩm, như: Những tổ đại bàng, Ngã ba lùm bùm, Phu-la-nhích, Hai bài thơ trăng Trường Sơn, Ngọn tháp, Bài thơ viết dưới tầm B.52, Gửi Đồng Hới, Bài thơ Đồng Hới, Biển và bờ, Cô gái sông Lũy, Đi học, Giữ vững ngọn buồm, Mẹ Suốt, mùa xuân và bó hoa của Bác…, những tên đất, tên làng đã đi vào lịch sử, như: Đường 12A, Khe Ve, La Trọng, Bãi Dinh, đèo Mụ Giạ, Phu-La-Nhích..., những con người anh dũng trong cuộc chiến đấu bảo vệ quê hương: Quách Xuân Kỳ, mẹ Suốt, chị Khíu, chị Lý... được nhà thơ tinh tế đưa vào tác phẩm như một niềm tự hào, một lời cổ vũ động viên mạnh mẽ gửi đến Nhân dân. Nhà thơ Xuân Hoàng làm thơ như “viết báo”. Những bài thơ “thời sự” nhưng không khô khan, cứng nhắc,  rập khuôn: “B.52 bay ngang qua tiếng học bài/Trút bom vào thị xã/Thị xã sơ tán rồi, về các ngả/Mặt đất vẫn xanh và rất rộng bầu trời/Ngày mai đây, khi bom đạn im rồi/Thị xã nhỏ trở về sum họp/Các em sẽ quên đi những điều không vui vừa phải học/Lại reo đùa trên bãi cũ B.52”.

Giai đoạn từ sau Chiến thắng mùa xuân năm 1975, đất nước thống nhất, nhà thơ Xuân Hoàng nhanh chóng chuyển nhịp sáng tác để phù hợp với những đổi thay của tình hình mới. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhà thơ cũng mở toang cánh cửa tâm hồn mình để cuộc sống ùa vào thơ. Tác phẩm của ông luôn luôn gắn liền với thực tế sinh động.

Ông sáng tác mà không sáng tác, chỉ là ông đang ngân hiện thực thành thơ. Các tập viết sau 1975, như: Về một mùa gió thổi (1983), Quãng cách lặng im (1984), Thời gian và quãng cách (1990), Thơ tình Xuân Hoàng (1991), Thơ tình gửi Huế (1995), Nỗi niềm trao gửi (1997), Gửi quê hương (1997) vẫn đậm chất “Xuân Hoàng”, hồn hậu và tinh tế, giản dị mà giàu xúc cảm. Nội dung đề tài, mạch nguồn cảm hứng sáng tác được mở rộng biên độ.

Phóng khoáng, đa dạng và linh hoạt. Giai đoạn này, nhà thơ sáng tác nhiều tác phẩm mang nội dung thế sự, nhưng không vì thế mà dằn vặt, nặng nề. Nhà thơ chiêm ngắm cuộc đời bằng nhãn quan của người có trí tuệ tỉnh táo và trái tim giàu yêu thương: “Tôi đứng đây nơi biển nối liền bờ/Ngoài xa ấy, bốn mùa chan chứa gió/Ngoài xa ấy, bốn bề con sóng vỗ/Biển chuyên cần, biển cũng mặn mòi hơn…”.

Nếu trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ngoài một số tác phẩm mang tính sử thi, anh hùng ca cách mạng, trong nhiều bài thơ khác nhà thơ Xuân Hoàng thường có sự đan cài khéo léo tình yêu quê hương với tình yêu đôi lứa. Bước sang giai đoạn này, thì ông tách hẳn thơ tình ra thành một dòng riêng. Rất bất ngờ, sự ra riêng ấy không hề khiên cưỡng mà lại mở ra không gian mới để trái tim nhà thơ thỏa sức cất tiếng. Năm 1990, tôi đang học khoa Văn Trường đại học Tổng hợp Huế. Năm ấy, nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt tập thơ “Thời gian và quãng cách”.

Rất nhanh chóng, tập thơ trở thành sách gối đầu giường của lũ sinh viên chúng tôi. Những dòng thơ đẹp dịu dàng mà đắm đuối của nhà thơ bước sang tuổi 70 đã mang lại cho tuổi trẻ chúng tôi rất nhiều cảm xúc: “Đó là khi làn tóc chảy như nhung/Rót hương lạ vào tâm hồn bỏ ngõ/Những sao trời xuống gần bên cửa sổ/Cũng thì thầm toàn những chuyện yêu đương…”. Từ cảm thức sáng tác “chúng ta” nhà thơ quay vào “tôi” vẫn không bị lạc lõng, xa rời cuộc sống, ngược lại đắm đuối hơn, ám ảnh hơn, đời hơn: “Hương cũ đi xa, giờ về gặp mặt/Tóc chúng ta đã bạc trước cây đời/Sao hương cũ vẫn mãi thơm ngào ngạt/Không chịu già theo năm tháng phai phôi?

Quê hương nhà thơ mong manh bên bờ sóng mà can trường và kiêu hãnh, bình dị mà lộng lẫy, là đề tài xuyên suốt trong đời thơ Xuân Hoàng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời kỳ nào, ông cũng viết về quê hương bằng niềm say sưa vô điều kiện. Có thể nói, nếu đem kết hợp tất cả các bài thơ về Quảng Bình của ông vào file chung, chúng ta sẽ có một Trường ca Quảng Bình đẹp tuyệt đối trên mọi phương diện. Quê hương ở sẵn trong tim và tự nhiên đi vào tác phẩm.

Bình dị mà yêu đến nao lòng: Ở với đất này tưởng đã quá quen/Không biết đấy chính là nơi lắm gió/Phải qua một thời gian dài cách trở/Khi trở về mới thấy rõ quê thêm/Ồ, thì ra nhiều gió quá nơi đây/Hè cũng gió mà đông về cũng gió!/Gió bấc, gió nồm đều bung hết cỡ/Việc đó thông thường, tôi chẳng hề hay!/Đến buổi chuyển mùa dữ dội hôm nay/Đêm khó ngủ, tôi bàng hoàng nhận rõ/Đất quê mẹ chính là nơi lắm gió/Chính là nơi cây cỏ dễ cuồng say”.

Nhà thơ Xuân Hoàng tài hoa, lãng mạn mà hồn nhiên, nhân hậu. Ông yêu đời, yêu người, yêu thơ không đắn đo. Với hàng nghìn tác phẩm nhà thơ để lại cho nền văn học Việt Nam, chúng ta đọc được trong đó tâm hồn, nhân cách của nhà thơ, chúng ta biết ơn ông khi được nhìn thấy trong đó vẻ đẹp của quê hương, cốt cách con người trong mọi thời kỳ lịch sử của quê hương, đất nước. Nhà thơ Xuân Hoàng đã có nhiều cống hiến cho văn học nghệ thuật Quảng Bình cũ và thơ Việt Nam. Nhiều văn nghệ sĩ mãi nhớ nụ cười ông cởi mở, nhớ thơ ông trí tuệ. Còn ông thì chỉ nhận “Lòng tôi thành cánh gió lung linh”. Cánh gió ấy thổi mãi trên trời quê, trời thơ bát ngát.

Trương Thu Hiền

 

 

 

tin liên quan

Truyện ngắn: Bóng chiều trên mái hiên cũ
Truyện ngắn: Bóng chiều trên mái hiên cũ
QTO - Buổi sớm ở miền quê thường bắt đầu bằng tiếng gà trống gọi ánh mặt trời. Nhưng ở ngôi nhà nhỏ của vợ chồng ông Nam, bà Lựu, bình minh không chỉ là khởi đầu của một ngày mới mà còn là khoảnh khắc để hai con người ở bên kia dốc đời gắng gượng bước tiếp.
Âm vang đại ngàn
Âm vang đại ngàn
QTO - Từ xa xưa, trống, cồng, chiêng, cùng với tù và, đàn A Toong, A Took và các loại khèn, sáo… là những nhạc cụ không thể thiếu trong các nghi lễ của đồng bào Vân Kiều, Pa Kô dành cho các vị thần linh và mỗi dịp cúng giỗ tổ tiên, hay tiễn đưa người chết trở về với tự nhiên. Chúng cũng hiện diện trong các dịp lễ hội, mang đến những âm thanh vừa thiêng liêng, vừa vui tươi.
Chân dung người thợ cầu qua góc nhìn của cố nhà văn Hữu Phương
Chân dung người thợ cầu qua góc nhìn của cố nhà văn Hữu Phương
QTO - Nhà văn Hữu Phương sinh năm 1949 ở xã Đại Trạch (Bố Trạch cũ). Tốt nghiệp đại học, ông về dạy học ở trường cấp 3. Sau ngày đất nước thống nhất, ông là giảng viên Trường cao đẳng Sư phạm Bình Trị Thiên. Sống xa nhà, ông vừa dạy học, viết văn. Năm 1993, ông về Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình cũ; từng giữ các chức vụ Phó Chủ tịch Hội, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình và nhiều năm liền là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Bình.