QTO - Từ Quốc lộ 1, qua hết cầu Ga rồi rẽ phải, đi dọc con đường Nguyễn Hoàng chạy song song với bờ Nam sông Thạch Hãn lên đến Trấm là kịp chạm đất Hải Lệ (nay thuộc phường Quảng Trị). Trải qua bao thăng trầm, biến thiên lịch sử, đất và người Hải Lệ vẫn thủy chung, sắt son, bình dị với lối sống mộc mạc, hài hòa cùng thiên nhiên nơi vùng đất “chưa mưa đã lụt”. Người Hải Lệ hôm nay luôn tự hào khi trên mảnh đất quê mình đang hiện diện một công trình xuyên hai thế kỷ-Đại thủy nông Nam Thạch Hãn-biểu tượng kết đoàn của Nhân dân Bình Trị Thiên một thời.
1. Ngược dòng thời gian, năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi vua lấy niên hiệu Gia Long, lập dinh Quảng Trị (sau đổi thành tỉnh Quảng Trị). Tích Tường, Như Lệ là hai làng xuất hiện từ sớm ứng với câu ca: “Tích Tường, Như Lệ bao xa/Cách một con hói (suối) với ba quãng đồng” thuộc huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị (cũ).
Lịch sử Đảng bộ xã Hải Lệ (1930- 2010) ghi rõ: Năm 2008, Hải Lệ sáp nhập vào thị xã Quảng Trị theo Nghị định 31/CP của Chính phủ với 5 làng: Như Lệ, Tích Tường, Tân Mỹ, Tân Lệ và Phước Môn. Làng Như Lệ có diện tích lớn nhất, 520ha. Người khai khẩn ra làng là ông Lê Đại Lang, lăng mộ hiện vẫn còn ở đồng Cây Trung, giữa bốn bề mênh mông ruộng lúa. Làng Tích Tường đứng sau Như Lệ, diện tích hơn 484ha. Người khai khẩn ra làng là ông Nguyễn Kim Bông, lăng mộ hiện còn tại ruộng Một (Tích Tường). Riêng làng Phước Môn là nơi sinh sống của đồng bào công giáo, do Thượng thư Nguyễn Hữu Bài mộ dân tứ xứ về khai hoang, lập làng những năm 30 của thế kỷ XX.
![]() |
Làng Tích Tường - Ảnh: T.LONG |
Nói thêm về làng Phước Môn xưa (bây giờ là thôn Tân Phước, hợp nhất làng Tân Mỹ với làng Phước Môn), mặc dù phần lớn người dân gốc công giáo, nhưng vào năm 1983, một trận lụt lịch sử cuốn qua Hải Lệ nhấn chìm các làng Tích Tường, Như Lệ nằm ven sông Thạch Hãn. Sau khi nước rút, nhiều cư dân làng Như Lệ di cư vào Phước Môn xin đất, làm nhà “tránh lụt”. Kể từ đó, tại làng Phước Môn, đồng bào lương giáo sống cộng đồng, đoàn kết cùng nhau xây dựng cuộc sống mới.
2. Hải Lệ, quê hương tôi được phác họa nên bởi những nét mộc mạc như thế, qua trí nhớ của một người con “xa ngái” là tôi. Những biến động thăng trầm, những gian khó hy sinh từ buổi đầu các dòng họ Ngô, Nguyễn, Hồ, Lê, Trần, Bùi... ở châu Hoan, châu Ái theo dấu chân mở cõi của các vương triều phong kiến vào khai khẩn, lập làng. Rồi qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, người Hải Lệ vẫn thủy chung, son sắt “bám đất, bám làng” ngẩng cao đầu chiến thắng thiên tai, địch họa, kẻ thù.
Hải Lệ trở thành cái nôi thấm đẫm nhiều nét văn hóa dân gian với các câu ca dao, tục ngữ, điệu hò xuôi chảy, tiếp nối từ đời này đến đời khác cho đến bây giờ. Dù xa quê mấy chục năm, tôi vẫn không bao giờ quên được điệu hò Như Lệ. Cái đói, cái nghèo, gian nan, thử thách, niềm vui, nỗi buồn... cứ ứng vào lời ru, câu hò Như Lệ, man mác thả trôi theo dòng Thạch Hãn tựa bầu sữa mẹ nuôi lớn khôn bao lớp người.
Tôi có người o cùng họ Ngô, mẹ đứa bạn thân thời “chăn trâu cắt cỏ” tên Ngô Thị Huế, thuộc thế hệ xưa nay hiếm. O Huế với các nghệ nhân trong xã Hải Lệ như: Ngô Thì Thời, Ngô Thị Kính... một thời là “mạch nguồn” của điệu hò Như Lệ. Năm 2022, o Ngô Thị Huế được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu nghệ nhân ưu tú trong việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa phi vật thể-hò Như Lệ.
![]() |
Tái hiện lại Thành Cổ Quảng Trị ở làng Tích Tường trong bộ phim “Mưa đỏ” - Ảnh: T.LONG |
Về quê, ghé thăm bạn thân, thăm o Huế. Bây chừ, o nhớ nhớ, quên quên. “Tra (già) rồi, sợ điệu hò Như Lệ sưu tầm từ xưa đến nay thất lạc, o chép vô một cuốn sổ, sau ni con cháu ai có duyên thì tiếp nối”, o Huế nỗi niềm. Rồi tiếng hò o Huế cất lên, cồn cào: “Ai về Hải Lệ quê tôi/Ngắm dòng Thạch Hãn, bãi bồi, dưa non/ Đâu đây vọng tiếng ru con/Giọng hò Như Lệ vẫn còn vấn vương”...“Hải Lệ tôi lại mến yêu/Bề dày truyền thống vốn nhiều vẻ vang/Hai thời kháng chiến bước sang/Quê hương Hải Lệ tiếp trang anh hùng”...
Đến với Hải Lệ, sẽ là một thiếu sót nếu chưa ngược lên Đập Trấm, thăm Đại công trình thủy lợi Nam Thạch Hãn. Khởi công ngày 8/3/1977, trong thời gian 3 năm (1977-1980), Đại công trình thủy lợi Nam Thạch Hãn hoàn thành nhờ vào bàn tay và khối óc của bộ đội cùng hàng vạn thanh niên, nam nữ toàn tỉnh Bình Trị Thiên đưa nước về tưới cho 9.000ha lúa vụ Đông-Xuân và gần 5.500ha lúa vụ Hè-Thu hai huyện Triệu Phong, Hải Lăng (cũ) và một phần diện tích huyện Phong Điền (tỉnh Thừa Thiên Huế cũ).
Trong một lần đến thăm công trường Nam Thạch Hãn đang thi công, tìm hiểu về con người và trầm tích văn hóa vùng đất Hải Lệ, nhạc sĩ Trần Hoàn sáng tác ca khúc “Câu hò trên công trường Nam Thạch Hãn”. Một điều rất thúvị, bằng sự kết hợp tài tình giữa hai làn điệu dân ca hò Như Lệ và hò khoan Lệ Thủy vào bài hát, nhạc sĩ Trần Hoàn tạo nên một sức mạnh cổ động to lớn, khích lệ phong trào thi đua trên toàn công trường: “Ta nắn dòng mương bắc qua sông qua suối/Ta cho dòng nước biếc đó chảy xuống đồng xa/Anh em ta ơi, ới chị em ơi/Ta bắt tay vào nhanh ta đào thật sâu/Khoan ơi... dô khoan xin mời các bạn/Khoan ơi... dô khoan ơi hò là... dố khoan/Chừ đượm mồ hôi để ngày mai say mùa/Cho đồng hoang hóa lên xanh lúa xanh màu/Con sông quê hương ơi ta mến ta thương/Bắt chảy ngược dòng thêm tưới mát đồng xa/Cho đêm đêm ta nghe văng vẳng câu hò…”.
Những ngày tháng Tám, tôi về thăm Hải Lệ, lãng đãng dọc chiều dài triền sông Thạch Hãn từ Tích Trường qua Như Lệ, lên bến Trấm, thấy mình nhỏ bé giữa quê hương bao dung, nồng nàn: “Có một dòng sông/Như dòng lệ ắp tràn/Mặn thắt lòng ai xuôi ngược/Cát đáy sông trộn cốt ngàn lính trẻ/Xin mang về xây thành cổ giữa lòng ta/Có một dòng sông/Đẫm vọng khúc tráng ca/Những nốt nhạc rơi vào lòng sâu tê buốt/Trời Thạch Hãn soi vào sông xanh suốt/Cỏ đôi bờ ướt lạnh nỗi người ơi…/Có một dòng sông/Như thế, vẫn chảy xuôi/Nhận hết về mình bao lở bồi thác lũ/Để đêm ru những linh hồn không ngủ/Gió ngàn năm thổi mãi khúc sông này” (thơ Nguyễn Việt Phát).
3. Những ngày tháng Tám lịch sử, trong không khí hào hùng cả nước hướng về kỷ niệm 80 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, có một sự kiện dư luận hết sức quan tâm, đó là việc công chiếu bộ phim điện ảnh “Mưa đỏ” do Điện ảnh Quân đội nhân dân sản xuất.
“Mưa đỏ”, bản anh hùng ca tái hiện lại cuộc chiến đấu anh dũng, kiên cường của quân và dân ta trong 81 ngày đêm bảo vệ Thành Cổ Quảng Trị năm 1972, cũng như cuộc đấu trí cam go, căng thẳng trên bàn đàm phán tại Hội nghị Paris, ca ngợi khát vọng hòa bình, độc lập, thống nhất và tinh thần hòa giải, hòa hợp dân tộc... Để có một “Mưa đỏ” hùng tráng, Điện ảnh Quân đội nhân dân phục dựng lại một Cổ thành Đinh Công Tráng- Thành Cổ Quảng Trị nguyên mẫu như thực tế từng tồn tại.
Tự hào thay khi vùng đất Hải Lệ được đoàn làm phim “Mưa đỏ” lựa chọn làm phim trường. Trên diện tích rộng 50ha ở bãi bồi ven sông Thạch Hãn ở làng Tích Tường xanh mướt ngô khoai mọc lên một tòa thành cổ. Người dân Hải Lệ sống lại với thời khắc lịch sử chiến tranh khốc liệt nhưng không kém phần hào hùng, bi tráng khi vào vai các diễn viên quần chúng trong bộ phim, góp phần làm nên thành công của “Mưa đỏ”.
Ngô Thanh Long