QTO - Mọi người hẳn còn nhớ và không nguôi xúc động, cảm khái và ấn tượng về một hiện tượng cách đây hai mươi năm: Cuốn nhật ký “Mãi mãi tuổi hai mươi” của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc cùng với cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” được xuất bản thành sách đã tạo nên tiếng vang lớn, “truyền lửa” yêu nước nồng nàn, cháy bỏng trong các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ. Cuộc đời dấn thân vì nước của Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm đã “cháy lên” trong thời chiến, nay tiếp tục “phát sáng” giữa thời bình. Nơi hy sinh của liệt sĩ Đặng Thùy Trâm đã được dựng bia di tích, cùng với các điểm di tích khác về liệt sĩ Đặng Thùy Trâm trên đất Quảng Ngãi. Thế còn nơi hy sinh, nơi chôn cất thi hài liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc nằm ở đâu trên đất Quảng Trị và có lưu dấu gì không?
Nguyễn Văn Thạc nhập ngũ ngày 6/9/1971, thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 101, Sư đoàn 325, từ đó sống với những “đêm trắng” đầy gian lao, vất vả, thao thức, trở trăn nhưng đấy chính là những đêm chờ sáng đầy lạc quan, hy vọng như trong thơ của anh gửi cho chị Phạm Thị Như Anh, người yêu của anh: “Đêm của anh xếp kín đầy bom đạn/Pháo sáng chập chờn trộn trạo với sao sa…/Đêm thao thức đón chờ ánh sáng/Đêm của chúng ta ấp ủ những mặt trời”.
![]() |
| Anh Nguyễn Văn Thục (trái), anh trai liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc và nhà thơ Đặng Vương Hưng (phải) với tấm ảnh Nguyễn Văn Thạc phục chế - Ảnh:GĐCC |
Vào chiến trường Quảng Trị năm 1972, Nguyễn Văn Thạc làm lính thông tin. Một đồng đội là anh Đỗ Minh Quang về sau đã kể lại những giây phút cuối cùng của anh Thạc: Tiểu đội anh tập kết vị trí chiến đấu ở thôn Hà My Đông từ đêm hôm trước. Sáng hôm sau, ngày 30/7/1972, theo yêu cầu của chính trị viên tiểu đoàn, tổ máy của anh Thạc đã mã hóa và phát lên trung đoàn một bức điện báo cáo tình hình tiểu đoàn.
Sau khi ăn cơm trưa, tiểu đội chia thành 3 tốp di chuyển sang Hà My Tây, cách khoảng 300m để gần chỉ huy, tiện liên lạc. Tốp anh Quang vừa ra khỏi hầm 10m, nghe tiếng pháo nổ rất gần bèn quay nhanh lại hầm. Pháo cày nát khu vực trú quân. Hầm rung lắc mạnh. Khoảng 15 phút sau, khi pháo lặng đáng ngờ, anh Quang thốt lên với đồng đội: “Tiểu đội mình dính rồi… ”.
Lao nhanh lên khỏi hầm, chạy qua hết rặng tre đến quãng đường trống, anh Quang thấy anh Thạc nằm bất động, máu từ đùi loang thành vũng. Một chiến sĩ nữa là anh Chương chạy về phía anh Thạc, cúi xuống quan sát và nói: “Quang ơi, Thạc hy sinh rồi!”. Lúc đó, anh Thạc từ từ mở mắt, giọng bình thản: “Thạc chưa chết đâu nhưng tỉnh thế này thì cũng không sống được nữa, chỉ tiếc còn nhiều việc dang dở chưa làm được…”. Anh Quang vội xé cuốn băng cùng anh Chương garô đùi cho anh Thạc, dù máu đã chảy hết. Các anh chuyển anh Thạc đến hầm phẫu tiểu đoàn để các y sĩ cứu chữa cho anh Thạc. Nhưng không kịp nữa rồi. Anh Thạc đã ra đi lúc 13 giờ 30 phút cùng ngày.
Trong lời tựa cuốn nhật ký “Mãi mãi tuổi hai mươi” của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, nhà thơ Đặng Vương Hưng, người sưu tầm, giới thiệu cuốn nhật ký này đã dẫn thông tin từ một người đồng đội thân thiết của anh Thạc, cho biết: “Mộ của Thạc ở thôn Đầu Kênh (tên thôn chính xác là Đâu Kênh), xã Triệu Long, quận Triệu Phong, Quảng Trị (tiếp giáp thôn Hà Mi, Phương Ngạn, gần lộ 4). Mộ được đặt ở thửa ruộng khá cao, cùng hai ngôi mộ khác, Thạc đặt đầu tiên”.
Từ nguồn thông tin này, cuối năm 1976, anh Nguyễn Văn Thục, anh ruột liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đã đến thôn Đâu Kênh, xã Triệu Long, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị (cũ), nay là thôn Bích Lộc Triêu, xã Ái Tử, tỉnh Quảng Trị, tìm mộ em trai mình. Xã Triệu Long lúc đó đã giao ông Lê Lợi, Xã đội trưởng dẫn ông Thục đi tìm mộ. Tìm quanh thôn không thấy, hóa ra, cứ như có cơ duyên mách bảo, ngôi mộ của anh Thạc nằm ngay sau vườn nhà ông Lợi. Cạnh đó còn có 2 ngôi mộ của 2 liệt sĩ khác.
Tôi đã hỏi chuyện anh Thục về dấu tích xác định mộ anh Thạc, anh Thục bùi ngùi kể: “Anh em đồng đội khi chôn cất Thạc, có đặt 2 tấm tôn Mỹ, một cái trên mộ và một cái trong mộ Thạc, có đục lỗ khắc tên Thạc. Chắc anh em lường trước chuyện bom đạn có thể làm bay tấm tôn trên mộ nên đã chôn thêm một tấm tôn trong mộ, để không bị thất lạc. Tôi nhìn hài cốt Thạc là tôi nhận ra, chính xác một trăm phần trăm: Chân trái bị gãy băng garô còn nguyên, tóc bị bạc ngay khi còn ở nhà, khuôn mặt, xương sọ, hàm răng, tôi mường tượng ra được”.
Sau khi bốc mộ liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc về an táng tại Nghĩa trang Liệt sĩ Từ Liêm, Hà Nội, anh Thục vẫn không nguôi nhớ về nơi em trai mình nằm lại giữa chiến trường Quảng Trị năm 1972 khốc liệt: “Tôi muốn lưu giữ kỷ niệm, lưu giữ dấu tích nơi chôn cất Thạc, để trở lại, để hương khói viếng thăm, đừng để đất không. Tôi đã bàn với bác Lợi, nhờ bác xây miếu thờ cho Thạc tại nơi Thạc được chôn cất. Bác Lợi đồng ý và nhiệt tình giúp đỡ”. Miếu thờ liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc được dựng năm 2001.
Thực tâm lâu nay, trong xô bồ phố thị và bận rộn đời thường, tôi vẫn thầm hẹn lòng là lúc nào đó sẽ tìm về nơi anh Thạc đã hy sinh. Khi tìm về, tôi đâu ngờ nơi đây còn có miếu thờ anh Thạc do người dân đồng ý dựng nên, điều mà tôi không biết và chắc cũng rất ít người biết. Tựa như một nỗi vô tâm. Tôi tìm về nhà ông Lợi thì vợ chồng ông đã về cõi thiên thu từ 6 - 7 năm trước. Chỉ có anh Lê Xuân Thắng, con ông Lợi ở lại đây, sinh sống và hương khói cho gia tiên và dĩ nhiên cho cả miếu thờ anh Thạc. Anh Thắng dẫn tôi đi một vòng quanh khu vườn, đến góc cuối vườn là nơi có miếu thờ anh Thạc. Tôi đặt bánh trái và thắp hương viếng miếu thờ anh Thạc. Chân dung anh Thạc đặt trong miếu, đội mũ lính, nét thư sinh, trẻ trai, “mắt thương nhìn cuộc đời”.
Anh đang nhìn ra những hàng cây vườn nhà, cây chuối, cây khế tỏa bóng râm mát xuống không gian miếu thờ trang nghiêm. Anh đang nhìn ra đồng lúa xanh ngút mắt phía trước, trĩu nặng mùa vàng từ đất đai quyện máu đào bao liệt sĩ. Rời miếu thờ anh Thạc, trở ra con đường phía trước xóm nhà anh Thắng, tôi chạnh nghĩ đã 20 năm rồi, kể từ khi cuốn nhật ký của anh Thạc được xuất bản, sao chưa ai mở một lối vào, dù nhỏ cũng được dẫn đến chỗ có miếu thờ anh Thạc, cho mọi người tiện đến thăm viếng, thắp hương? Bỗng gặp anh Võ Ngọc Trúc ở nhà bên đang phơi lúa vàng rộm cả mặt đường làng, tôi bắt chuyện với anh về việc cần có lối vào này. Hóa ra, điều này dường như cũng nằm trong mạch nghĩ của anh. Anh dẫn tôi đi qua một lối nhỏ bên mép vườn nhà anh, đi thẳng rồi rẽ ngang một đoạn là đến chỗ có miếu thờ anh Thạc.
Anh nói trên lối này có thể mở một đường bê tông rộng 1m dẫn ra chỗ miếu thờ. Tôi thấy nếu làm vậy là quá thuận tiện cho mọi người, nhất là các bạn trẻ đến với không gian tưởng nhớ anh Thạc. Một không gian nhỏ thôi, nhưng sẽ có “sức chứa” lớn, nếu ở đây được trồng lên hai cây bạch đàn, loài cây mà anh Thạc và chị Như Anh yêu quý, một cho anh Thạc và một cho chị Như Anh. Và còn nữa, nếu ở đây dựng các tấm bia đá khắc in bìa cuốn nhật ký “Mãi mãi tuổi hai mươi” của anh Thạc; khắc in những dòng thư đầy tiên cảm lạ lùng về ngày thống nhất đất nước của anh Thạc viết gửi chị Như Anh ngày 18/9/1971: “Bất kỳ một sự vinh quang nào cũng cần phải trả bằng một giá.
Và khó khăn, gian khổ càng nhiều và thử thách càng nhiều, sự vinh quang đó càng trở nên rực rỡ. Chúng ta đừng đi tìm những chân lý sâu xa đơn thuần qua những áng văn và những bài thơ và bài toán. Ngày 30/4/1975, T. sẽ trả lời cho P. câu: Hạnh phúc là gì?... ” (P. là tên viết tắt, chỉ Phạm Thị Như Anh).
Những trang nhật ký của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đã truyền đi năng lượng sống tích cực, đã mở ra hành trình lan tỏa yêu thương. Tên của cuốn nhật ký đã thành tên của Quỹ “Mãi mãi tuổi hai mươi” (nay đổi thành Câu lạc bộ), một tổ chức đã miệt mài, bền bỉ trên hành trình “Tri ân - Tôn vinh - Thiện nguyện - Truyền lửa” đầy ấn tượng trong cộng đồng suốt 20 năm nay.
Với bề dày 20 năm, hành trình “Mãi mãi tuổi hai mươi” cần tiếp tục đẩy lên, đặc biệt, cần kết nối với nơi thấm máu đào của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, để được “truyền lửa” từ chính nơi này. Xã Ái Tử cần kết nối với Câu lạc bộ “Mãi mãi tuổi hai mươi” để biến nơi thờ liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc thành điểm văn hóa - tưởng niệm, thành điểm du lịch tâm linh; để tiếp tục truyền đi thông điệp sâu sắc mà Thủ tướng Phan Văn Khải đã viết trong thư gửi báo Tuổi trẻ và bạn đọc, năm 2005: “Khi đạt tới sự chân thành dâng hiến hết mình cho nghĩa lớn như Thùy Trâm và Thạc, thì con người ở một thời mà đến được với mọi thời”.
Nguyễn Hoàn









