QTO - Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn uyên bác, tinh tế và tài hoa với nội lực văn chương thâm hậu, để lại nhiều tác phẩm thơ, bút ký, nhàn đàm có giá trị tư tưởng và nghệ thuật dài lâu. Trong đó có những trang viết về quê hương Quảng Trị.
Trong những bút ký đặc sắc nhất viết về chiến tranh và hòa bình của quê hương không thể không kể đến tác phẩm “Hành lang của người và gió…”. Bài ký bắt đầu từ cột mốc thời gian đặc biệt là ngày ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, thỏa ước mơ đoàn viên của bao người. Từ đó cảm xúc và chiêm nghiệm như những vòng sóng lan tỏa tưởng chừng không dứt giữa hai chiều thời gian mà hồng tâm là mảnh đất quê nhà, là những biểu tượng lịch sử-địa lý-nhân văn như sông Bến Hải, cầu Hiền Lương in đậm suốt hai chục năm trong tâm thức của dân tộc Việt Nam. Chúng ta cùng lắng đọng và thống khoái khi đọc đoạn mở đầu của bài ký này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã cảm khái trước mùa xuân lịch sử:
“Đêm 27/1/1973
Chỉ cần qua một quãng đêm yên tĩnh này nữa, chiến tranh Việt Nam sẽ kết thúc. Tôi đứng một mình bên bờ Nam sông Bến Hải, kính cẩn chờ giây phút mà toàn thế giới sẽ trả lại cho dòng sông đã bị vỡ đôi của đất nước tôi. Chưa bao giờ lịch sử lại căng đầy trong tôi một niềm cảm khái trầm hùng đến như vậy, quanh trụ bê tông của một cây cầu đã gãy. Đất nước hai lần gian lao đã in dấu trên trụ cầu bằng bao nhiêu lớp vỏ hàu nham nhở, giống như vết bùn lấm nhọc nhằn chân ngựa đá mà vua Trần đã nhìn thấy ngày đuổi giặc khỏi Thăng Long hơn bảy trăm năm trước. Tôi cũng là người lính Việt chân đất nón dấu, cầm lấy ngọn giáo của Nhân dân, đêm nay về quỳ hôn lên chân ngựa đá…”.
Một giọng văn chỉ có thể là Hoàng Phủ Ngọc Tường, với lung linh những liên tưởng đa chiều, gần xa và biến hóa, rất cụ thể lại vừa rất khái quát trong nỗi niềm văn-triết-sử bất phân như phong cách văn xuôi đặc sắc vốn có của ông.
![]() |
| Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường - Ảnh: T.L |
Cảm hứng và liên tưởng sâu xa, mẫn tiệp, tự hào mà bi tráng, hân hoan và cộng hưởng tiếp tục thăng hoa qua trang viết của nhà văn viết ký hàng đầu nước Việt: “… một thế giới rung chuyển quanh ngôi Thành Cổ Quảng Trị và những ngôi làng ven sông vợ Bắc chồng Nam…Từ ngày mai nước Mỹ sẽ làm lễ hạ cờ tại sân bay Tân Sơn Nhất và ở sân bay Gia Lâm, những phi công Mỹ sẽ rời “Khách sạn Hinton” để lên tàu về nước. "Tôi là người Việt vậy thì tôi tồn tại”. Đó là cách viết ngắn nhất của bộ Đại Việt sử ký toàn thư, từ các vua Hùng cho tới bây giờ…”.
Vậy đó, những cảm quan được đào xới tận gốc rễ, những suy ngẫm được chắt lọc từ hiện thực, được gợi ý từ những chi tiết điển hình, chọn lọc tưởng rất xa nhau mà hóa ra rất gần gụi, tạo nên tầm cao tư tưởng và chiều sâu nghệ thuật, thổi bùng lên những rung động ngôn từ.
Và đoạn kết cũng đầy những liên tưởng bất ngờ và ý vị, giúp giàu có cảm xúc và tri nhận, đồng tình rất cao và hào hứng trong niềm cộng hưởng với nhà văn:
“Ngày ấy, trên cây cầu giới tuyến, tôi tiễn thầy Dương Kỵ ra Bắc, đêm nay tôi trở lại đón Huy Cận và Xuân Diệu vào Nam. Giữa hai lần tôi qua cầu là một dòng sông trôi đi trong máu lửa Việt Nam.
Tôi nghe tiếng dạt dào sóng vỗ từ bên trong và dưới chân chúng tôi, vĩ tuyến 17 rung lên như một sợi dây đàn. Đêm nay người Việt đã qua sông…”.
Cảm hứng lịch sử cũng được thể hiện một cách độc đáo qua bài viết “Thầy Đào Duy Từ”. Tên tuổi của ông gắn liền với “Lũy Thầy” ở khu vực Đồng Hới khi vào Nam phò tá đắc lực chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên mở rộng cơ đồ xứ Đàng Trong, hoàn thành tâm nguyện lớn lao của một kẻ sĩ luôn nặng lòng ưu dân ái quốc. Tác giả nhìn nhận và tôn vinh một trí thức phong kiến tận hiến cho đất nước và luôn giữ vững phẩm giá của mình:
“Dù được chúa hết sức yêu quý, nhưng không vì thế mà ông trở nên một kẻ nịnh thần, ngược lại Đào Duy Từ khẳng định sự cương trực của một phẩm chất của lương tâm kẻ sĩ, từ đó tự trao cho mình trách nhiệm ngăn chặn những sai lầm của chúa, vì lợi ích của Nhân dân. Chúng ta đã thấy phản ứng của Đào Duy Từ chống lại chính sách độc quyền mua bán của nhà chúa. Một lần khác, vì chúa không nghe lời can, ông cáo ốm ở nhà luôn mười hôm không đến phủ, chúa Sãi phải nhượng bộ…”.
![]() |
| Một tuyển tập của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường - Ảnh: P.X.D |
Tâm nguyện và cống hiến của Đào Duy Từ đã được một người hậu thế như nhà văn đánh giá đúng mức, hơn thế còn như một sự nhắc nhở cho đời sau về những điều cần nói và dám nói cũng như cần nghe và dám nghe. Một bài học cực kỳ quan trọng, chưa bao giờ xưa cũ:
“…Ông làm thơ gởi chúa:
Muôn sự đã ngoài chăng ước nữa
Ước tôi hay gián, chúa hay nghe
Đó là tâm sự tha thiết nhất của ông với cuộc đời, dù rằng chỉ sống đạm bạc “cơm ba bữa chuộng rau cùng muối”, ông không có điều mong ước nào lớn hơn điều này, chỉ một điều: Kẻ dưới dám nói điều nhân nghĩa và người trên dám nghe theo. Đó chính là cái tâm"lấy dân làm gốc”(dĩ dân vi bản) rất sâu bên trong nhân cách kẻ sĩ của Đào Duy Từ. Ông đã thực hiện trọn vẹn cái tâm đó cho đến lúc chết…”.
Trong rất nhiều bài viết tâm huyết của mình, hầu như nhà văn hay nói đến vai trò, thiên chức của kẻ sĩ ngày xưa và trí thức ngày nay. Họ, theo tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường phải là người đại diện cho trí tuệ, văn hóa, lương tri của dân tộc, là đại diện cho Nhân dân để cống hiến trí lực, đóng góp tiếng nói vì mục đích tối thượng là ưu dân ái quốc. Theo đó phẩm giá hàng đầu, quan trọng nhất của kẻ sĩ, của trí thức trong mọi thời là phải biết thực sự vui buồn với vận mệnh đất nước và số phận của Nhân dân; phải biết và phải dám có dũng khí chống ngoại xâm, cường quyền, bạo ngược, bất công; phải lên tiếng để bảo vệ sự thật, bảo vệ nhân phẩm, bảo vệ đồng bào, nhất là những người thấp cổ bé họng. Trí thức đúng nghĩa, trí thức đích thực, trí thức chân chính phải là người uy vũ bất năng khuất, phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di như cổ nhân đã từng nhắc nhở. Người đương thời và kể cả hậu thế có thể quên đi chức tước, phẩm hàm của trí thức nhập thế, họ chỉ nhớ những gì anh đã làm cho dân, cho nước, cho sự tiến bộ của dân tộc mà thôi.
Đó cũng là bài học làm người vô cùng quý giá cho trí thức từ cổ chí kim. Những bút ký văn học hay của Hoàng Phủ Ngọc Tường thường chứa đựng những kiến văn uyên bác, những chiêm nghiệm sâu xa, những liên tưởng bất ngờ, thú vị, đi từ quan sát cụ thể đến suy ngẫm khái quát, từ cảm quan đến lý giải, triết luận, làm bùng nổ cảm xúc và tư tưởng. Nhà văn cũng là bậc thầy trong sử dụng ngôn từ, cài cắm chi tiết và tạo nên hô ứng trong tác phẩm, tạo nên những công phu ảo diệu văn chương không dễ có.
Hy vọng sẽ còn có nhiều dịp quay lại với nhà văn nổi tiếng này.
Phạm Xuân Dũng










