QTO - Nhà văn Hữu Phương sinh năm 1949 ở xã Đại Trạch (Bố Trạch cũ). Tốt nghiệp đại học, ông về dạy học ở trường cấp 3. Sau ngày đất nước thống nhất, ông là giảng viên Trường cao đẳng Sư phạm Bình Trị Thiên. Sống xa nhà, ông vừa dạy học, viết văn. Năm 1993, ông về Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình cũ; từng giữ các chức vụ Phó Chủ tịch Hội, Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình và nhiều năm liền là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Quảng Bình.
Để lại cho văn học 6 tập truyện ngắn và 3 tiểu thuyết, năm 2021, ông phát hiện bệnh nan y. Vừa điều trị ông vừa kiên trì viết, và tiểu thuyết Trăng mọc nơi bến phà xưa là kết quả thời gian ông chiến đấu với bạo bệnh. Không thể chờ đợi để ngắm đứa con tinh thần sau cùng, ngày 3/2/2023, ông trút hơi thở cuối cùng, mãi mãi đi xa.
Trăng mọc nơi bến phà xưa, tiểu thuyết 10 chương, gần 300 trang, như bức tranh tổng phổ về ngành cầu đường sau chiến tranh. Tổng Công ty Ánh Dương đang thi công nhánh Đông và Tây đường 15. Chuyện đưa ta về nơi một thời đạn bom ác liệt, bến phà Long Sơn-nơi sẽ mọc lên cây cầu hiện đại, với sự góp mặt của Tổng Giám đốc Thủy, các giám đốc Trạc, Doanh, Thông; Lệ Thu kỹ sư trưởng tư vấn giám sát, Lượng chỉ huy trưởng thi công, Luân tổ trưởng bảo vệ và đội ngũ thợ cầu. Lật mở cuốn sách, lòng tôi ngưỡng mộ và khâm phục. Trong khi căn bệnh nan y đang gặm nhấm cơ thể, ông vẫn cố gắng “sống”, đời sống đầy bất trắc của những người thợ cầu. Mỗi ký phác trên bức tranh tràn đầy sinh lực của ông, vừa hấp dẫn, ma mị, với các thủ thuật hút người đọc không rời mắt khỏi tác phẩm.
“Sau ba mươi năm ông Thủy lại trở về đây. Cái bến phà Long Sơn thấm đẫm máu xương bao lớp tuổi trẻ, nơi ông đã sống, đã chiến đấu” (tr.3). Trên bến phà này, một chiếc cầu bê tông đúc hẫng dự ứng lực sẽ mọc lên, do Công ty Ánh Dương thi công, mà ông với cương vị là Tổng Giám đốc. Ký ức dội về trong ông, xương máu bao đồng đội đã thấm vào lòng đất. “Ông Thủy chợt ứa nước mắt. Trước mặt ông, từng hàng bia mộ sơn trắng, tăm tắp” (tr.21). Ông nhớ Toản, thi thể Toản mềm nhũn, trong khoang lái chiếc ca nô bẹp dúm. Nhớ Vững, quả từ trường phát nổ, chiếc ca nô cùng người lái tung thẳng lên trời.
![]() |
| Tiểu thuyết Trăng mọc nơi bến phà xưa của nhà văn Hữu Phương - Ảnh: N.T.N |
Thông tin mũi khoan đầu tiên ở ngầm Tà Khơn chạm phải bộ xương người khiến Tổng Giám đốc Thủy giật mình. Ông giao cấp dưới lục tìm tài liệu liên quan các trận ném bom ở cung đường này...
Dưới ánh pháo sáng của địch, ta khẩn trương san lấp hố bom và tời chiếc xe ra khỏi ngầm. “Bom và rốc-két lập tức xối xuống. Chiếc xe chết máy nổ tung. Như một khối lửa, lăn xuống lòng khe. Tiếng người rên la. Máu xương trộn đất...”. (tr.54). Lúc này, “Đoàn xe phía Nam đã chuyển bánh nhưng đoàn xe phía Bắc, giờ một nối dài. Đêm đã chuyển về sáng”. Cảm xúc được đẩy lên cao trào, người đọc nghẹt thở: “Lệnh hỏa tốc, dừng đào bới. Chuyển sang san lấp thông đường, kịp giải phóng đoàn xe... Hàng trăm chuyến xe vượt qua đêm đó. Hàng vạn chuyến xe những ngày tiếp sau. Hàng triệu chuyến xe những năm sau đó. Súng đạn, quân lương, xe tăng, đại pháo, thậm chí cả thân máy bay tháo rời. Đều cõng trên lưng những chiếc Zil ba cầu, đi qua ngầm Tà Khơn, đến ngày toàn thắng” (tr.54). “Hồ sơ” những mẫu xương đã được làm rõ một cách trần trụi: “Sau Ba mươi tháng Tư, người sống ai về nhà nấy, mải mốt với cuộc mưu sinh. Cũng có chủ trương tìm hài cốt những người hy sinh đưa về. Nhiều người may mắn tìm được xác. Nhưng những người nằm lại dưới ngầm Tà Khơn này phải hy sinh lần nữa”. Họ cứ mải mốt như vậy, cho đến khi mũi khoan của Ánh Dương đụng tới. Tổng Thủy ra lệnh dừng khoan, bóc hàng trăm khối đất đá, tìm được ba bộ hài cốt liệt sĩ. Không soạn diễn văn, ông nói “vo” trong lễ truy điệu nhưng mọi người nghẹn ngào, ứa nước mắt.
Công trình đang diễn tiến, bỗng cọc nhồi thứ tư biến mất. Sự cố làm mọi người bàng hoàng, các giám đốc rối bời. Cọc nhồi bị tụt xuống gần bảy mét do gặp hang caster. Trong khả năng kỹ thuật, việc khắc phục sự cố và khoan, rót bê tông các cọc nhồi đều thuận lợi. Nhưng lòng đất, vốn là nơi cất giấu những điều ít ai ngờ. Một sự thật ngủ yên trong lòng đất ba mươi năm được đánh thức. Mũi khoan cọc nhồi gặp vật cứng, đó là một khối sắt khá lớn. Con tàu hút bùn và một thợ lặn được điều tới. Kết quả, “Đó là một chiếc ca nô! Độ sâu hơn một mét dưới bùn” (tr.244)...
Những cọc nhồi sau cùng hoàn thành, chuyển sang đóng khung ván thép đổ bệ trụ. Đây là công đoạn cần có mặt tất cả trên công trường: Thợ cầu, thợ lặn, cần cẩu, xe đổ bê tông. Đã một tuần nay, không khí khẩn trương chưa từng thấy. Tiến độ đổ bê tông bệ trụ như “đánh bạc” với trời, bởi tranh chấp với siêu bão từ biển Đông: “Ba máy bơm đồng loạt rung chuyển. Ba ống bê tông tươi như ba con mãng xà khẽ rùng mình. Ba vòi phun bê tông tuôn trào. Cánh công nhân bê tông, chân đi ủng cao su, tay cầm dụng cụ, đi lại như những người tí hon trong khung sắt”. Siêu bão đã đi vào vùng biển các tỉnh miền Trung, mưa gió mỗi lúc một áp đảo nhưng không ai nao núng, máy và người thi nhau “thở” hết công suất. Chín giờ sáng hôm sau, bê tông các bệ trụ đạt mức thiết kế. Chỉ huy trưởng phát lệnh “Dừng bê tông! Ai nấy nhẩy cẫng reo hò trên các sà lan” (tr.235).
Khép lại chuỗi ngày gian nan, tiến hành đổ dầm cầu theo công nghệ bê tông đúc hẫng dự ứng lực. Từ hai phía, các dầm cầu vươn ra đối xứng, ngày hợp long, những “đốt” bê tông cuối cùng gặp nhau, hạnh phúc dâng lên trong lòng người thợ. Nom từ xa “Chiếc cầu bê tông tinh khôi tựa vầng trăng mới mọc, vút cao lồng lộng nơi bến phà xưa. Chiếc cầu vươn cao sừng sững, ngạo nghễ trong hoàng hôn, khiến dòng Long Sơn dịu dàng và thơ mộng quá đỗi. Ngày cùng đồng đội sống chết ở đây, nằm mơ cũng không ai hình dung có một chiếc cầu bê tông cốt thép vĩnh cửu, lừng lững vươn qua bến phà Long Sọ thế này” (tr. 291).
Vầng trăng mọc nơi bến phà xưa như mọc trong lòng người thợ cầu. Họ xứng đáng nhận sự tôn vinh đất nước. Cuộc đời người thợ cầu đường suốt đời là dã chiến, cho đến ngày rửa tay gác cuốc, nghỉ hưu. Ở đâu có cầu đường, ở đấy là nhà của họ. Tranh tre nứa lá, đèn dầu tù mù. Ăn khe uống suối, chiếu manh ngủ sạp. Trẻ con chậm học, chuyển trường vì theo chân bố mẹ” (tr.12). Đời sống người thợ cầu luôn “vạn biến”, song cái tâm của họ chính là điều “bất biến”. Họ đã đi qua chiến tranh, đi qua những hy sinh, thiệt thòi. Nơi họ đến, những cung đường, cây cầu sẽ mọc lên bằng tinh thần dũng cảm và lòng yêu nghề, nâng cánh cho đất nước vươn mình.
Nguyễn Tiến Nên









