Đến với bài thơ hay: Ru bão

  • 06:33, 28/10/2025
  • icon facebook
  • icon youtube
  • icon titok

QTO - Ngủ đi cơn bão cuối đồng

Mưa hay nước mắt mẹ mông mênh rồi

Gầm giường cóc cứ kêu trời

Nghiến răng hay nghiến ruột người đau hơn.

Đồng làng ngập trắng ngập trơn

Lời ru mẹ ướt qua cơn gió lùa

Con rùa đội đá trên chùa

Lưng mẹ đã ướt lưng rùa còn khô.

Bà ngồi thầm khấn Nam mô

Mong sao nước rút cho khô chuồng gà

Lời ru như khóc đồng xa

Mẹ ru cơn bão hay là ru con

Ánh đèn trong gió chon von

Nhập nhòa bóng mẹ gầy mòn nỗi lo.

Ông không qua nổi cơn ho

Còn nhường áo rách lại cho cái sàng

Bà khâu nước mắt hai hàng

Thay ông vá mảnh hồn làng nuôi tôi.

Bão qua mấy chục năm trời

Người theo hương khói về nơi âm thầm

Câu ca dao cũ tôi cầm

Lời ru mẹ lại mọc mầm trên tay

Lời ru cho lúa xanh cây

Bâng khuâng tôi đứng chiều nay nắng vàng...

Bà gieo mình xuống đồng làng

Giờ ai vá áo cho sàng, sàng ơi?

                                  Lê Đình Tiến

Minh họa: H.H
Minh họa: H.H

Lời bình:

Chưa bao giờ đất nước ta lại phải gánh chịu nhiều cơn bão liên tiếp gần đây đổ bộ vào dải đất chữ S mà có nhà thơ đã ví đó là “con đê trên bán đảo”. Một đất nước thuần nông với nền văn minh lúa nước lâu đời đối diện với cảnh lụt bão gây bao tang tóc ngập đồng, ngập ruộng, ngập nhà, ngập thôn và ngấn lụt, ngấn bão hằn lên bao ký ức.

Nhà thơ Lê Đình Tiến, một người con nông thôn thuần phác ở một làng quê nghèo vốn là thi sĩ viết lục bát khá hay. Vừa rồi, tác giả đạt giải cao trong cuộc thi thơ “Thơ ca và nguồn cội”. Thơ anh bắt đầu từ mạch nguồn dân gian quê kiểng ám ảnh tâm thức với những phát hiện chi tiết khá tinh tế, sống động đã dựng lên hồn làng, khí phách làng qua dáng dấp của những người thân. Với bài thơ “Ru bão” là hình ảnh mẹ, bà và ông-những người nông dân đã neo giữ đồng quê bằng cả thân phận, hồn vía của mình qua bao sàng sảy bão lụt đất trời.

Khi đọc thơ viết về bão, tôi cứ tưởng gặp những hình ảnh mưa gió quăng quật và sự oán giận của lòng người trước thiên nhiên khắc nghiệt. Nhưng không, ở đây nhà thơ “Ru bão”, ru một cách điềm tĩnh, ru để xua đi bao vất vả, nhọc nhằn, căng mình ra, tháo sức mình chống bão. Đây cũng là một cách định vị bình thản tự tin để vượt lên sự tàn khốc, phá hoại của bão. Âu đó cũng là một cách ứng xử mềm nhưng có sức mạnh lan tỏa, một hướng thiện, một quyết chí quật cường.

Thơ Lê Đình Tiến hay vận dụng cách nói dân gian để chuyển tải những thông điệp mới: “Gầm giường cóc cứ kêu trời/Nghiến răng hay nghiến ruột người đau hơn” bắt đầu từ thành ngữ: “Con cóc là cậu ông trời”. Hay: “Con rùa đội đá trên chùa/Lưng mẹ đã ướt lưng rùa còn khô” bắt đầu từ một huyền tích văn hóa trong dân gian. Chính điều này khiến thơ anh gắn với tâm thức làng, với hồn làng. Chính văn hóa làng là sức mạnh vô biên, giúp chúng ta nhận ra giá trị nhân bản của vẻ đẹp hồn hậu, chân chất mà cũng rất bền lòng, sâu sắc.

“Ru bão” bắt đầu bằng hình ảnh mưa và mẹ: “Mưa hay nước mắt mẹ mông mênh rồi” và: “Đồng làng ngập trắng ngập trơn/Lời ru mẹ ướt qua cơn gió lùa”. Mẹ “ru bão” cũng chính là mong muốn thiên tai mau qua, là sự dỗ dành: “Ngủ đi cơn bão cuối đồng”. Câu thơ toát lên sự nhân ái bao dung, sự vỗ về hồn hậu và dám chấp nhận mọi thách thức bằng sự dịu dàng nhưng kiên định của mình. Đó cũng là cách chuyển tải một thông điệp: “Lời ru như khóc đồng xa/Mẹ ru cơn bão hay là ru con”. Hình bóng mẹ trong ánh đèn heo hắt chính là một đốm lửa với bao vụt sáng, với bao sẻ chia: “Ánh đèn trong gió chon von/Nhập nhòa bóng mẹ gầy mòn nỗi lo”. Với bà và ông thì nỗi lo lại rất cụ thể, phù hợp với tâm lý tuổi người già: “Bà ngồi thầm khấn Nam mô/Mong sao nước rút cho khô chuồng gà”;  còn ông thì: “Ông không qua nổi cơn ho/Còn nhường áo rách lại cho cái sàng”.

Tôi rất thích những chi tiết nhỏ nhưng "phát sáng" trong thơ Lê Đình Tiến. Đó là sự quan sát, phát hiện tinh tế và cao hơn, là sự thẩm thấu tâm hồn một cách bộc bạch, thủ thỉ tâm tình, thấm đẫm trước bao kiếp người. Rất thú vị là có một nhân vật cứ ngỡ là vô tri nhưng lại ám ảnh người đọc, đó là hình ảnh cái sàng đã sàng sảy bao hạt thóc lép, những cơn mưa nặng hạt, những sương gió bời bời. Cái sàng là một nông cụ nhỏ nhoi gắn bó với người nông dân. Tôi cũng đã từng viết câu thơ: “Mẹ gặt hái cánh đồng hay cánh đồng sàng sảy mẹ”.

Bài thơ “Ru bão” đã kể lại một câu chuyện khá cảm động về người ông nhường tấm áo rách cho cái sàng để: “Bà khâu nước mắt hai hàng/Thay ông vá mảnh hồn làng nuôi tôi” một câu thơ thật hay, thật xúc động, thật da diết, ám ảnh và thật tài hoa.

Mẹ “Ru bão” để vượt lên: “Lời ru mẹ lại mọc mầm trên tay/Lời ru cho lúa xanh cây”. Một mầm sống mọc lên từ trong gió bão, một sự kiên định vững chãi. Đó cũng chính là một khát vọng sống, là khúc vĩ thanh về tình yêu cuộc sống, tình yêu con người, tình yêu đồng ruộng-một tình yêu rất cụ thể đã hóa thân, đã đồng hành, đã thuyết phục. Giọng thơ về cuối chùng xuống với một cái kết nhân hậu khi: “Bà gieo mình xuống đồng làng/Giờ ai vá áo cho sàng, sàng ơi?”. Đó cũng chính là sự lay thức, tự vấn để cho chúng ta sống tốt đẹp hơn, lương thiện hơn, vượt lên những cơn bão của chính mình.

Nguyễn Ngọc Phú

tin liên quan

Hoàng Sâm, vị tướng của những thời khắc lịch sử
Hoàng Sâm, vị tướng của những thời khắc lịch sử
QTO - Ngày 13/10/2025, tại TP. Hải Phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 3 tổ chức lễ truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân cho liệt sĩ, Thiếu tướng Hoàng Sâm, người Đội trưởng của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (VNTTGPQ). Như vậy, 56 năm sau ngày Thiếu tướng Hoàng Sâm hy sinh ở chiến trường Trị-Thiên khói lửa, Tổ quốc, Quân đội, Nhân dân vinh danh ông - vị tướng tài đức vẹn toàn, được Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp giao những nhiệm vụ khó khăn nhất vào những thời điểm lịch sử khó khăn nhất của cách mạng Việt Nam.
Nhà sử học Dương Trung Quốc: “Phải làm sao để Quảng Trị xứng đáng với ý nghĩa trong tên gọi của mình”
Nhà sử học Dương Trung Quốc: “Phải làm sao để Quảng Trị xứng đáng với ý nghĩa trong tên gọi của mình”
QTO - Quảng Trị-vùng đất từng được xem là “phên dậu” của Tổ quốc-luôn là chứng nhân cho những biến thiên, mất mát và khát vọng thống nhất non sông. Trong hành trình ấy, giá trị lịch sử-văn hóa của vùng “đất lửa” càng trở nên thiêng liêng, vừa là cội nguồn, vừa là điểm tựa để vươn tới tương lai. Trong cuộc trò chuyện giữa phóng viên (P.V) Báo và phát thanh, truyền hình Quảng Trị với nhà sử học Dương Trung Quốc, những lát cắt lịch sử, văn hóa và con người vùng đất này hiện lên như một dòng chảy không ngừng, từ quá khứ, qua hiện tại, đến bến bờ tương lai.
“Kỷ vật” Kdol, A mưng
“Kỷ vật” Kdol, A mưng
QTO - Từ thuở lập bản, lập làng, cuộc sống của đồng bào dân tộc Bru-Vân Kiều, Pa Kô tựa cây rừng nương náu bên bóng núi và bám vào từng hơi thở của đất, của rừng để du canh, du cư qua bao mùa nương rẫy. Để chống chọi với những đêm dài lạnh giá mùa đông dưới cánh rừng nguyên sinh hay săn bắt thú rừng để mưu sinh, người Bru-Vân Kiều, Pa Kô đã dùng vỏ cây A mưng để làm chăn, áo, khố, mũ đội đầu; dùng vỏ cây Kdol để dệt nên tấm lưới săn muông thú.