QTO - Ra đời cùng với sự hình thành của làng cách đây hơn 500 năm, nghề làm nón lá ở thôn Văn Quỹ, xã Nam Hải Lăng, đã trải qua nhiều thăng trầm lịch sử. Hiện nay, làng nghề chỉ còn vài chục hộ còn duy trì nghề làm nón và đang nỗ lực thay đổi mẫu mã, chất liệu để phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Tuy vậy, theo sự đổi thay của đời sống xã hội, thế hệ trẻ ngày nay ít mặn mà với nghề truyền thống của cha ông. Do đó, nỗi lo mai một, thất truyền nghề làm nón ở Văn Quỹ vẫn luôn canh cánh trong lớp thế hệ cao niên của làng.
![]() |
Nhiều người dân Văn Quỹ vẫn tâm huyết với nghề làm nón của cha ông - Ảnh: Đ.V |
Bền bỉ giữ nghề
Khu chái phía sau ngôi nhà của chị Đỗ Thị Phương đã trở thành nơi chằm nón thường xuyên của một tổ gồm 7 chị em ở thôn Văn Quỹ suốt 4 năm nay. Đây là một trong số ít tổ chằm nón hoạt động hiệu quả tại địa phương nhờ có nguồn hàng ổn định. Chị Phương từng làm nhiều nghề khác nhau trước khi quay lại với nghề làm nón truyền thống của quê hương.
“Trước đây, tôi làm nghề thu mua lúa và thợ may. Sau này lấy chồng, tôi mới bắt đầu làm nón. Thời gian đầu, nón tiêu thụ ổn định nhưng sau đó thì ế dần. Cách đây khoảng vài năm, nghề nón ở địa phương mới khởi sắc trở lại khi nón làm bằng tấm đệm được cải tiến mẫu mã, vẽ hoa lá khá bắt mắt, được thị trường ưa chuộng”, chị Phương chia sẻ.
Do làm theo đơn đặt hàng của các công ty ở miền Nam nên mỗi tháng tổ của chị cung cấp bình quân 300 chiếc (giá nón hoàn thiện có vẽ trang trí là 200 nghìn đồng/chiếc). Ngoài ra, chị em còn chằm thêm khoảng 200 chiếc nữa theo đơn hàng lẻ ở địa phương và cung cấp cho các chợ trong vùng.
Khoảng 10 tuổi đã biết làm nón, đến nay chị Ngô Thị Sương đã có hàng chục năm gắn bó với nghề. Chị tham gia tổ chằm nón của chị Phương vì có việc làm ổn định, thường xuyên. Theo chị, trong tổ, mỗi người phụ trách một công đoạn khác nhau, từ vót vành, vào khuôn, chằm nón đến quét sơn hoàn thiện…
Đối với người thạo nghề, nếu làm toàn thời gian thì mỗi ngày có thể làm được 3 chiếc nón. “Hiện nay, nghề nón mang lại thu nhập cho chị em chúng tôi khoảng 100 nghìn đồng/ ngày. Dù vậy, ở quê không có nhiều việc làm nên khoản thu nhập đều đặn từ nghề này cũng giúp chúng tôi trang trải phần nào cuộc sống”, chị Sương bộc bạch.
Bà Nguyễn Thị Oanh dù không làm cố định ở tổ vẫn đều đặn chằm được khoảng 2 chiếc nón mỗi ngày để bỏ mối ngoài chợ hoặc làm cho người quen đặt. Theo bà, nghề nón ngày càng kén người theo. Người trẻ trong làng đều lựa chọn làm các công việc khác ở đô thị, vào miền Nam làm công nhân hoặc đi xuất khẩu lao động.
“Hiện ở làng chỉ có người từ 45-60 tuổi là còn chằm nón. Người già hơn thì mắt đã kém, tay run không làm được. Người trẻ hơn thì không mặn mà. Vì vậy, nghề làm nón đang đứng trước nguy cơ mai một dần…”, bà Oanh thở dài.
Nón của thôn Văn Quỹ hiện có 3 loại chính: Nón chằm từ đọt lá nón rừng; nón lá dừa sấy khô và nón làm từ cây đệm đan tấm sẵn. Loại nón dành cho người lao động thường được làm dày, chắc chắn, giá thành rẻ và không chú trọng nhiều đến thẩm mỹ. Trong khi đó, loại nón phục vụ khách du lịch lại được làm từ nguyên liệu đẹp, có trang trí hoa văn, tranh vẽ các địa danh nổi tiếng hoặc phun sơn màu nên có giá cao và đẹp mắt hơn. |
Nỗi lo nghề mai một
Năm nay 75 tuổi, ông Nguyễn Văn Hiền là người cao tuổi duy nhất còn thường xuyên làm khung chằm nón tại thôn Văn Quỹ. Ông nói nghề nón cũng trải qua nhiều thăng trầm. Năm 1968, chiến tranh ác liệt, dân làng sơ tán vào Huế và hầu như bỏ lại quê khung nón cùng các dụng cụ làm nghề chằm nón. Sau đó, tại nơi sơ tán, người chú ruột của ông Hiền, một thợ làm khung nón giỏi, đã làm lại khung giúp bà con khôi phục nghề. Ông Hiền cũng được người chú truyền lại nghề làm khung từ đó, cho đến sau giải phóng trở về quê thì ông tiếp tục theo nghề.
![]() |
Mẫu mã nón lá thôn Văn Quỹ hiện nay khá đa dạng, bắt mắt - Ảnh: Đ.V |
Theo ông Hiền, trước đây ông làm khung nón không xuể. Ngoài cung cấp trong làng, ông còn bán cho người dân các vùng lân cận có nghề làm nón. Nhưng nay, ông chỉ làm cầm chừng, khi có người đặt mới làm.
Ông lo ngại rằng, khi lớp trẻ không còn mặn mà và lớp người lớn tuổi dần không thể làm nghề được nữa, nghề nón ở Văn Quỹ có nguy cơ thất truyền là điều khó tránh khỏi. “Nghề làm nón không chỉ là kế mưu sinh mà còn là nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của thôn Văn Quỹ. Do vậy, nếu nghề mai một hoặc bị mất đi là điều rất đáng tiếc”, ông Hiền chia sẻ thêm.
Trưởng thôn Văn Quỹ Nguyễn Hữu Long cho biết, ngoài làm ruộng, nghề làm nón truyền thống từng nức tiếng gần xa và là kế mưu sinh của người dân. Một thời nghề thịnh hành, nón làm ra tiêu thụ không kịp với thị trường rộng lớn. Nhưng do thời thế đổi thay và nhiều nguyên nhân khác, hiện nay nghề nón ngày càng bị thu hẹp.
“Nguyên vật liệu đầu vào làm nón khá cao, trong khi đa phần nón làm ra khó tiêu thụ, giá không cao nên lãi thấp. Ngoài ra, lao động kế thừa nghề nón hiện nay không nhiều. Đó là những lý do chúng tôi lo ngại nghề làm nón truyền thống thôn Văn Quỹ sẽ mai một dần”, ông Long bày tỏ.
Trước nguy cơ làng nghề đi vào quên lãng, ông Long và nhiều người dân địa phương mong muốn các cấp, ngành liên quan hỗ trợ làng nghề cải tiến mẫu mã, đa dạng sản phẩm; tăng cường xúc tiến, quảng bá, tìm thị trường tiêu thụ để nghề được duy trì và phát triển hơn trong tương lai.
Đức Việt