QTO - Biển, trong ký ức của mỗi người, hiền hòa, lãng mạn. Nhưng với những ngư dân một đời gắn bó với sóng nước, biển là hơi thở, là mưu sinh, là sự sống và cũng là mất mát khôn cùng. Yêu biển, với họ, là một tình yêu nồng nàn đến mức không gì có thể tách rời, dù biển lắm khi nghiệt ngã, lắm lúc bão giông. Trong từng con sóng vỗ, có nước mắt hòa cùng vị mặn của biển-thứ nước mắt của những con người vẫn nói lời thương giữa giông bão cuộc đời.
1. Người phụ nữ ấy vẫn ra động cát gần nhà vào những ngày rằm. Ở đó, ngôi mộ gió của chồng chị nằm cô đơn giữa hoang hoải gió cát. Gần 20 năm nay, dù vẫn đều đặn dẫn con ra ngôi mộ ấy để khói hương nhưng trong thẳm sâu, chị vẫn nuôi hy vọng người chồng yêu thương sẽ trở về bằng xương, bằng thịt. Nhiều năm trước, chồng chị mất tích trong một chuyến đi biển dài ngày. Bạn thuyền bảo, anh đã rơi xuống giữa muôn trùng con sóng dập dồn trong một ngày biển động nhưng suốt ba năm trời, chị vẫn cứ đi dọc các làng ven biển miền Trung với mong mỏi tìm được anh trở về. Khi đôi chân người đàn bà xứ cát đã không còn vững chãi, chị mới đắp ngôi mộ gió ở động cát gần nhà để hương hoa mỗi dịp lễ, Tết. Vậy mà, trong trái tim đã héo mòn vì nỗi đau mất mát, ánh lửa hy vọng vẫn chưa một ngày lụi tắt.
![]() |
Minh họa: H.H |
Ngôi mộ ấy không có hài cốt, chỉ là một đụn cát nhô lên, vài viên gạch giữ chân cát nhưng là cả thế giới hy vọng và nhớ thương của người phụ nữ miệt biển. Vào mỗi sáng sớm, khi gió biển còn lạnh và ánh bình minh rọi vào mặt biển lấp lánh, chị lại đứng ở động cát cao nhìn ra xa, như chờ một hình bóng trở về từ sóng cả. “Mất tích không có nghĩa là chết”, chị từng nói với tôi trong một buổi sáng động cát ràn rạt gió, nghe nhẹ tênh mà sao đau đớn lạ. Có người nói chị kiên trì vô vọng nhưng với tôi, chị chính là minh chứng cho tình yêu biển bám sâu, chắc rễ-chấp nhận đợi chồng giữa vô định nơi sóng nước, chấp nhận nuôi hy vọng giữa mênh mang nỗi vô vọng.
Dọc các làng biển, những ngôi mộ gió vẫn tồn tại như những điểm neo linh thiêng. Với người yêu biển, mỗi mộ gió là lằn ranh giữa nhớ và quên, giữa chờ đợi và chấp nhận. Và càng chăm chút, vun vén cho ngôi mộ ấy, người ở lại càng nhắc nhở bản thân đừng rời xa biển vì biển đã nuôi dưỡng họ, đã là huyết mạch của dòng đời họ.
2. Tôi đến đảo Nam Du (tỉnh Kiên Giang cũ) vào một ngày biển dịu dàng, nắng lấp lánh trên những lối đi lên đảo nhỏ. Gần 30 năm trôi qua nhưng với người dân nơi đây, nỗi mất mát vẫn đâu đó trong những ánh mắt hướng ra giữa biển mỗi lúc hoàng hôn buông. Đêm 2/11/1997, khi bão Linda quét qua đây, đã cướp đi biết bao sinh mạng. Nhiều gia đình mất chồng, mất cha, mất con. Tên gọi bão Linda ăn sâu vào ký ức người trên đảo như một nỗi ám ảnh kinh hoàng.
Tôi nghĩ đến cái đêm mà gió quăng quật mái nhà, biển như dập vùi tàu thuyền, sóng cuồng gào như muốn nuốt chửng bầu trời và mặt biển thành một. Khi bình minh lên, người ta đếm xác, đếm người mất tích, đếm nhà cửa tan nát, đếm những mái chèo vô chủ dạt trôi vào bờ. Có gia đình bỗng chốc trở nên trống vắng, có em thơ thức giấc không thấy cha kể từ hôm ấy. Thời gian trôi theo bao mùa biển động nhưng nỗi đau như vẫn còn đó. Ngay giữa lối lên đảo là một ngôi đền tưởng niệm hơn 400 nạn nhân đã tử nạn trong cơn bão dữ và vẫn còn đó, những ngôi mộ vô danh được vun lên sau đêm kinh hoàng ấy. Bão qua. người dân Nam Du gạt nước mắt, dựng lại mái nhà, sửa sang tàu thuyền, đóng thuyền mới. Trái tim đau đớn nhưng bàn tay vẫn chắc nịch làm việc, quyết không rời đảo, không quay lưng với biển.
Tình yêu biển ở Nam Du sau Linda là tình yêu đã cất lên từ đổ nát. Người ta nhìn sóng, nhìn hướng gió, dặn nhau: Phải cẩn trọng, phải kiên cường. Nhưng không ai từ bỏ. Họ vẫn ra khơi mỗi sáng, vẫn nghe tiếng gió hú, vẫn kể về biển như bạn, như lời ru. Hòn đảo ấy hôm nay đã hồi phục, người dân lại mưu sinh bằng biển, du khách đến chơi nghe kể chuyện bão Linda, nghe kể về mộ gió, về tình yêu với biển. Mỗi người dân Nam Du trở thành người kể chuyện biển, để thế hệ sau nhớ rằng: Biển là thách thức nhưng cũng là niềm tự hào.
3. Tôi vẫn nhớ, mỗi mùa bão về, dọc những làng chài miền Trung, có những người đàn bà lặng lẽ ra đứng bên mép sóng. Họ lặng nhìn ra xa. Nơi ấy, chân trời, mặt nước nhập nhòa và cơn giông vẫn còn vết tích chưa tan. Họ gọi tên chồng, tên con như thể tiếng gọi ấy có thể vượt qua ngàn trùng để đến được với người đang ở phía bên kia biển cả. Trong giọng họ có cả sự thao thiết, cả niềm hy vọng mong manh và nỗi đau tưởng đã trở nên bình thản. Những người đàn bà miền biển hiểu rằng, biển không chỉ nuôi sống, mà còn cất giữ linh hồn của những người họ thương. Vì thế, mỗi mùa giông gió qua đi, họ lại vun lại bờ cát, thắp nén nhang nơi mộ gió, để gọi người thân về trong khói hương mặn nồng mùi biển.
Qua bao mùa bão giông hay sự cố môi trường biển, dẫu đớn đau và từng thất vọng, người miệt biển vẫn yêu biển đến kiệt cùng. Biển dạy cho người ngư dân bài học về kiên nhẫn, về chấp nhận, về hy sinh âm thầm. Bài học ấy được viết bằng mồ hôi, nước mắt và những mặn mòi khơi xa. Và người yêu biển, dù qua trăm bão giông, vẫn quay mặt ra sóng, vẫn nói lời yêu bằng những ngày cần mẫn trên sóng cả. Đó là lí do vì sao mà người phụ nữ ngày ngày vun bồi mộ gió của chồng bằng nỗi đau khôn xiết nhưng vẫn sẵn lòng cho đứa con trai duy nhất theo nghiệp biển. Đó cũng là lí giải cho ánh mắt của những người đàn ông sống sót trở về sau bão Linda trên đảo Nam Du, dẫu đôi tay đã bợt bạt qua bão gió dập vùi nhưng chưa một ngày quay lưng với nghề biển.
Chỉ ai yêu biển mới hiểu: Tình yêu ấy không chỉ là mưu sinh, mà là một phần máu thịt. Khi bàn chân chạm cát, khi bàn tay nắm mái chèo, khi mùi mặn mòi bốc lên trong gió sớm cũng là khi họ thấy mình đang sống, đang tiếp nối tình yêu từ cha ông, từ những người đã nằm lại giữa mênh mang sóng gió. Và khi bình minh rải nắng lên bờ cát, những con thuyền sẽ lại rẽ sóng ra khơi, mang theo bao lời thương trong giông bão.
Diệu Hương