icon facebook Facebook icon phone Liên hệ
icon category Chuyên mục

Đại tá, GS.TS Trình Quang Phú: Kỷ nguyên mới phải có con người mới

  • 09:44, 15/08/2025
  • icon facebook
  • icon youtube
  • icon titok

Đại tá, GS.TS Trình Quang Phú là nhà khoa học, nhà báo, nhà văn, nhà hoạt động chính trị - xã hội; Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông, tác giả của nhiều tác phẩm văn học, đặc biệt là những tác phẩm viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Ông từng là cán bộ của Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, tham gia nhiều đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam đi các nước và Hội nghị Paris; trợ lý của luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là quyền Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam). Ông từng là thành viên tổ tư vấn của Thủ tướng Phan Văn Khải. Với những cương vị từng đảm trách và hành trình phục vụ cách mạng, ông cũng là một nhân chứng của nhiều bước ngoặt lịch sử đất nước.

Phóng viên Chuyên đề ANTG Giữa tháng - Cuối tháng có cuộc trò chuyện với ông về chặng đường gắn với những bước ngoặt của lịch sử dân tộc.

 

Tôi may mắn vì được chứng kiến những hiện thực sống động của đất nước

- Thưa Đại tá, GS.TS Trình Quang Phú, cơ duyên nào đưa ông đến với nghề báo?

+ Năm 12 tuổi, tôi đã làm liên lạc. Đến năm 15 tuổi, tôi tập kết ra Bắc theo đoàn Thiếu sinh quân. Những năm 1958-1959, tôi bắt đầu viết bài cho Báo Tiền phong. Có thể nói, Báo Tiền phong là bà đỡ nghề báo của tôi. Hồi đó, Báo Tiền phong có đội ngũ "thông tín viên", dưới mỗi bài viết đều có 3 chữ TTV trong ngoặc đơn. Trong nhóm TTV đó có tôi, Võ Khắc Nghiêm, Dương Thị Xuân Quý, là 3 cộng tác viên xuất sắc thường xuyên của báo. Kể từ đó, cây bút như là tay trái của tôi. Nhiệm vụ chính mà tôi đảm nhiệm là làm những công việc thường xuyên Nhà nước giao cho một cán bộ.

- Là cộng tác viên xuất sắc của Báo Tiền phong, ngày đó, ông thường viết những gì?

+ Tôi viết khá tự do, từ những điều mắt thấy, tai nghe. Lúc đầu, tôi ở trong đoàn khảo sát địa chất Việt Bắc, Tây Bắc, nên đi nhiều, tôi viết về làng bản, về văn hóa dân tộc, về đoàn địa chất, những bản tin dài, ngắn khác nhau. Từ Tiền phong, tôi tiếp tục viết cho Báo Nhân dân, Báo Lao động và Báo Cứu quốc. Đến năm 1961, tôi dự thi bút ký đầu tiên trên Báo Cứu quốc với bài "Bước chân người địa chất trên sông Đà" và được giải Nhì. Tôi viết bằng niềm yêu thích của mình chứ không qua trường lớp đào tạo nào. Trên Báo Tiền phong ngày đó có Bản tin nghiệp vụ dành cho thông tín viên, họ chia sẻ những thông tin kỹ thuật về viết báo, tôi đọc và tự học từ đó. Sau này, Thông tấn xã Việt Nam mở khóa học "Văn-Sử-Địa", tôi mới tham gia khóa học viết chính thức.

- Điều gì đã thôi thúc ông vào chiến trường làm phóng viên mặt trận?

+ Thời điểm đó, được vào chiến trường với những thanh niên như chúng tôi, đặc biệt với người miền Nam tập kết ra Bắc là một niềm vinh dự dù có thể chúng tôi phải đối diện với cái chết. Tôi là người cầm bút nên càng phải đi. Năm 1968, tôi vào chiến trường Khe Sanh - Quảng Trị, chứng kiến một trận đánh khốc liệt giữa ban ngày và đã chụp được bức ảnh "Cắm cờ ở sân bay Tà Cơn". Lúc đó, tôi lao lên để chụp thì vấp ngã và trong tư thế nằm ngã đó, tôi đã chụp được bức ảnh lịch sử các chiến sĩ quân Giải phóng cầm cờ xông lên chiếm điểm cao. Bức ảnh giành Huy chương Vàng quốc tế trong cuộc thi ảnh nghệ thuật tại Đại hội Thanh niên Thế giới lần thứ 8, năm 1968. Vì bức ảnh đó mà tôi bị thương. Cùng nhóm phóng viên mặt trận với tôi có anh Hồng Nhu của Báo Quân đội nhân dân, anh đã hy sinh, tôi và mấy đồng nghiệp nữa thì may mắn trở về. Khe Sanh thời điểm đó vô cùng ác liệt, mỗi đêm chúng tôi chỉ ngủ 1-2 tiếng thôi, nắm cơm lấy ra chưa kịp ăn thì B52 đã ném bom xuống... Tan tác hết cả... Vì thế, với tôi, viết hay chụp ảnh không nghĩ đến giải thưởng. Tôi chỉ quan niệm, đó là trách nhiệm của người cầm bút, cầm máy, bắt được những thời khắc lịch sử và ghi lại.

- Vậy, ông mê viết báo hay chụp ảnh hơn?

+ Cả ngòi bút và máy ảnh đều là tay trái của tôi, ảnh minh họa cho bài viết. Tôi luôn có chủ ý chụp lại để làm tư liệu sau này. Vì thế, tôi yêu cả hai.

- Ngày đó, những truyện ký, bút ký chiến trường của ông nổi bật ở tính chân thực, cảm xúc sâu sắc và góc nhìn người trong cuộc. Những bài viết không tô hồng, mà tái hiện đau thương, lý tưởng và sức mạnh con người. Ông quan niệm thế nào về người cầm bút trong chiến tranh?

+ Tôi nghĩ, người cầm bút là nhân chứng của lịch sử. Họ có trách nhiệm phản ánh sự thật để độc giả, những người ở hậu phương hiểu được những khốc liệt của chiến tranh và cái giá của hòa bình phải trả bằng xương máu của chiến sĩ và đồng bào ta. Viết đúng sự thật để phản ánh được tất cả những điều đó. Có lẽ, chỉ có trong chiến tranh mới có những câu chuyện xúc động như thế. Tôi có thể gặp một cô thanh niên xung phong vừa hành quân vừa hát, nhưng một tiếng sau cô đã nằm xuống. Những khoảnh khắc ấy, khiến chúng tôi lặng người đi và không thể không viết.

Trong bài "Bộ xương trên võng Trường Sơn", tôi kể câu chuyện trên đường hành quân gặp một chiếc võng, mở ra có một bộ xương. Anh bộ đội đã hy sinh vẫn còn cuốn sổ tay, chữ mờ nhòe hết rồi. Những người mở đường đi trước đã nằm xuống, họ muốn viết gì, nói gì với chúng tôi - những người lính đến sau? Hiện thực cuộc sống xúc động như vậy đó. Tôi nghĩ, mình là một nhà báo may mắn vì đã đi qua cuộc chiến đó, chứng kiến được hiện thực ấy.

Ngày đó, tôi và nhà văn Sơn Tùng cùng hành quân vào Nam. Hai anh em nói với nhau rằng, vào đây sống chết là lẽ thường, nhưng cố gắng sống trở về để viết. Tôi và anh Sơn Tùng lúc đó đều nung nấu viết về Bác Hồ. Sơn Tùng bảo tôi Bác Hồ còn có nhiều chuyện chưa viết, sau này ông thành công với tác phẩm "Búp sen xanh", còn tôi viết ký "Bông Huệ thơm" về mối tình đầu của Bác.

 

- Suốt những năm ở chiến trường, ông có kỷ niệm đặc biệt nào về những bài viết của mình?

+Tôi có nhiều bài ký về Trường Sơn: "Trường Sơn huyền thoại", "Khúc ca Trường Sơn"... Nhưng, xem ra cũng chỉ mới ghi lại những xúc cảm. Đề tài này còn nhiều như cây rừng Trường Sơn vậy.

Một câu chuyện cũng rất xúc động mà sau này tôi viết thành "Câu chuyện N.145". Khi tiếp nhận đoàn anh em tù binh được trao trả, có một chiến sĩ luôn mê sảng và mỗi lần lên cơn động kinh là la hét. Anh cứ nghĩ xung quanh là địch nên chửi bới rất ghê, thậm chí chửi và chống lại cả bác sĩ đang tận tình chăm sóc anh. Đến khi tỉnh lại, anh và người bác sĩ điều trị nhận ra là anh em của nhau, đã xa cách 20 năm trời. Mẹ mất rồi, người anh đi chiến đấu, bị địch bắt. Người em tập kết ra Bắc, trở thành bác sĩ chiến trường. Đó là câu chuyện có thật tôi viết thành truyện ngắn xúc động, được bạn đọc yêu thích.

Trong thời bình, tôi có một kỷ niệm với nghề báo. Tôi vẫn nhớ bài báo để lại nhiều dấu ấn, đó là bài viết về bà Phạm Thị Vách đăng trên Báo Nhân dân vào tháng 4/1961. Bà làm thủy lợi rất giỏi, đã biến hòn đảo giữa sông Hồng quanh năm ngập lụt, nơi "sống ngâm da, chết ngâm xương" thành đảo xanh tươi, nước lũ không vào được. Bác Hồ đọc xong bài viết đó, đã tặng huy hiệu cho chị Vách. Sau đó, về thăm Hưng Yên, Bác còn tận tay gắn huy hiệu lần 2 cho chị Vách và về sau chị được phong Anh hùng Lao động. Mọi người nói bài báo của tôi phát hiện ra một anh hùng.

- Điều tuyệt vời là ông có chất liệu đời sống nhưng có khi nào ông cảm thấy hiện thực ấy làm khó cho những sáng tạo của ông? Và, ở một góc nào đó, ông bị hiện thực giới hạn sự sáng tạo?

+ Tôi nghĩ, tôi là người may mắn vì đã được chứng kiến những hiện thực sống động của đất nước. Nó đặt ra câu hỏi với người cầm bút, sẽ viết như thế nào để phản ánh được hiện thực ấy. Tôi cho rằng, sự sáng tạo sẽ nâng hiện thực lên chứ không làm bóng bẩy, bóp méo hiện thực đi. Trách nhiệm của người cầm bút là làm cho hiện thực đó sống động hơn. Cái khó với tôi là thời gian quá ít, tôi làm nhiều việc cùng một lúc, vì thế phải chắt chiu thời gian để viết. Đến bây giờ, tôi vẫn tranh thủ viết từng giờ, kể cả khi lên máy bay, tôi vẫn viết, vẫn còn nhiều điều tôi muốn viết ra...

72 tuổi tôi mới được mặc bộ quân phục công khai trước mọi người

- Ông nói rằng làm báo, chụp ảnh chỉ là nghề tay trái, vậy nghề chính của ông là gì?

+ Từ một thiếu sinh quân, tôi được đào tạo rồi trở thành cán bộ nhà nước. Sau này, tôi làm việc cho Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, làm công tác ngoại giao, trợ lý cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ, tham gia tổ tư vấn của Thủ tướng. Đó là những công việc chính thứ nhất tôi phải làm hằng ngày. Bên cạnh đó, tôi làm nhiệm vụ của ngành An ninh giao.

Năm 1968, Bộ trưởng Bộ Công an Trần Quốc Hoàn chính thức giao nhiệm vụ cho tôi. Lúc đó, tôi tham gia đoàn đại biểu của Thanh niên Giải phóng miền Nam dự Đại hội Thanh niên Thế giới. Trong đoàn có một đại úy phản chiến, địch đang có âm mưu lôi kéo anh ấy, kể cả kế hoạch bắt cóc viên đại úy. Bộ trưởng giao nhiệm vụ cho tôi, với tư cách là nhà báo đi theo đoàn, làm thế nào để tiếp cận và kịp thời phá âm mưu đó, giúp anh ta hiểu và đề phòng. Đó là nhiệm vụ đầu tiên của tôi.

Ở Hội nghị Paris, tôi tham gia với tư cách là một nhà báo. Hàng trăm nhà báo tác nghiệp ở đó, nhiều người trong số họ cũng là tình báo của đối phương, tôi được chỉ đạo phải tiếp cận họ. Chuẩn bị sang Paris, Bộ trưởng bảo tôi: "Trước khi làm nhiệm vụ, cậu phải biết uống rượu, biết uống rượu nhưng không được say, vì không say mới lấy được thông tin...”. Còn nhiều chuyện thầm lặng khác nhưng có lẽ nên để nó thầm lặng. Đến năm 72 tuổi, nhận quyết định về hưu, tôi mới mặc bộ quân phục công khai trước mọi người, ai cũng ngỡ ngàng...

- Với tư cách là nhân chứng tại Hội nghị Paris, theo ông, Hiệp định Paris có ý nghĩa thế nào?

+ Bác Hồ từng dặn rằng, phải "Đánh cho Mỹ cút - đánh cho ngụy nhào". Muốn cho Mỹ cút thì phải có Hiệp định Paris. Chúng ta đã kết hợp giữa quân sự và ngoại giao một cách nhuần nhuyễn. Phải tạo được sức nặng từ chiến trường như Khe Sanh, Quảng Trị và nhất là thắng lợi của trận "Điện Biên Phủ trên không" suốt 12 ngày đêm cuối tháng 12/1972 trên bầu trời Hà Nội..., chúng ta mới có lợi thế ở bàn đàm phán. Khi Hiệp định Paris được ký, chúng tôi vỡ òa hạnh phúc. Có 3 sự kiện ở Paris khiến tôi không thể nào quên. Lần thứ nhất là ngay khi Hội nghị trù bị 4 bên (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa), lần đầu tiên đoàn Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia, rất cần gây thanh thế, cần làm để thế giới ủng hộ chúng ta, thì đêm đó lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được treo ở đỉnh cao của Nhà thờ Đức Bà Paris, một nơi thiêng của nước Pháp. Khoảnh khắc đó, Paris rất xúc động. Nhưng, chúng tôi không biết ai đã làm việc ý nghĩa đó. Đến hơn 50 năm sau, năm 2024, chính tôi được phân công đón để tri ân 2 người treo cờ ấy. Đó là cơ duyên, là kỷ niệm khó quên.

Chuyện thứ hai, tôi được chứng kiến giờ phút lịch sử, phái đoàn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam do một người phụ nữ dẫn đầu. Madam Nguyễn Thị Bình, một người phụ nữ duyên dáng, thông tuệ xuất hiện ở Paris. Cả Paris xôn xao, báo chí đưa tin ở trang nhất với những dòng tít: "Nữ hoàng Việt cộng", "Việt cộng đến Paris", "Nữ hoàng Paris Bình"... Cờ Việt Nam, cờ Mặt trận Giải phóng tung bay trên đường phố Paris. Đấy là một sự kiện lịch sử chưa từng có. Hình ảnh ấy rất đẹp và ấn tượng, khiến cho mỗi cán bộ đều thấy tự hào, mình là người của Mặt trận Giải phóng, là người Việt Nam, đi đâu cũng ngẩng cao đầu. Và, khoảnh khắc thứ ba là khi Hiệp định được ký, cả Paris như vỡ òa, khẳng định một lần nữa vai trò, vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế.

Theo Hiệp định Paris, Mỹ sẽ rút quân trong danh dự. Nói cách khác là chúng ta đã thực hiện được vế thứ nhất của Bác Hồ hiệu triệu là "Đánh cho Mỹ cút". Chính phủ 3 thành phần sẽ diễn ra và non sông sẽ thống nhất. Nhưng, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã vi phạm Hiệp định, mở ra điều kiện để ta "Đánh cho ngụy nhào" thuận lợi hơn. Ngoại giao gắn với chiến trường đã tạo ra thế toàn thắng của dân tộc ta.

- Đúng là những thời khắc xúc động và tự hào của dân tộc mà ông may mắn được chứng kiến. Vậy, sau khi kết thúc sứ mệnh tại Hội nghị Paris năm 1973, ông trở về chiến trường miền Nam tiếp tục những nhiệm vụ mới như thế nào?

+ Tôi về nước và vào Cam Lộ, Quảng Trị, nhận nhiệm vụ mới. Trụ sở của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đóng tại Đông Hà, Quảng Trị. Tôi giúp việc cho luật sư Nguyễn Hữu Thọ và bà Nguyễn Thị Bình. Tôi nhớ, lần đó, chúng tôi đi xe từ ngoài Bắc vào, cầu Hiền Lương đã sập nên phải đi cầu phao. Chúng tôi xúc động vô cùng. 20 năm chia cắt, chúng tôi chờ mãi giây phút đó. Tôi xin xe dừng lại mấy phút để xuống đi bộ lên mảnh đất đã 20 năm đợi, 20 năm chờ. Xúc động không nói nên lời. Ngày đó, Quảng Trị vừa giải phóng xong, chúng ta quyết định xây ngay trụ sở đối ngoại của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để các nước cử đại sứ đến trình quốc thư.

Tôi nhớ đến những câu nói của Madam Bình, khi có nhà báo hỏi: "Đâu là ranh giới của Việt cộng", bà đã trả lời: "Nơi nào bom Mỹ ném thì đó là đất của chúng tôi". "Thế Thủ đô của bà ở đâu?". Bà nói: "Trong chiến tranh, Thủ đô luôn ở trong trái tim mỗi người Việt Nam". Cho nên, việc xây dựng trụ sở là quan trọng; trụ sở được anh em công binh xây dựng trong 25 ngày đêm. Ngay sau khi chúng ta có Thủ đô của Chính phủ Cách mạng lâm thời, lập tức có 41 đại sứ của 41 quốc gia đến trình quốc thư. Giờ phút đó linh thiêng lắm. Dưới lá cờ của Mặt trận Giải phóng, các nước đến trình quốc thư, điều này có ý nghĩa rất lớn, là sự công nhận, đánh giá của thế giới đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc của chúng ta.

Nhà văn Như Bình trò chuyện với GS.TS Trình Quang Phú.
Nhà văn Như Bình trò chuyện với GS.TS Trình Quang Phú.

Học Bác không nên chỉ khuôn phép, hành chính

- Ông là nhân chứng của một thời kỳ lịch sử. Sau này, ông tiếp tục công việc sáng tác bằng một loạt tác phẩm về Bác Hồ. Vì sao ông chọn đề tài này?

+ Từ khi mới 12 tuổi, đi làm liên lạc, với tôi Bác Hồ là một ông tiên luôn theo mình. Nhưng, mãi đến khi ra Bắc, lần đầu tiên được thấy Bác là ngày 2/9/1955, tôi theo đoàn của Thiếu sinh quân diễu hành qua Quảng trường Ba Đình. Đoàn Thiếu sinh quân đi trước, dừng lại để ngắm Bác trên khán đài, Bác nói: "Miền Nam đi tới không dừng lại". Sau này ngẫm nghĩ, câu nói của Bác rất sâu sắc, Bác muốn gửi thông điệp miền Nam tiếp tục chiến đấu, tiếp tục tiến tới ngày toàn thắng. Sau này nghiên cứu, viết sách về Bác, tôi càng hiểu Bác là một người vì nước, vì dân, chắt chiu thời gian để làm việc, cống hiến cho đất nước.

Trong tất cả những thứ Bác tiết kiệm thì thời gian với Bác là thứ quý giá. Tư tưởng của Bác là "Dân giàu - nước mạnh", để làm được điều đó, mỗi người phải biết tận tâm, tận lực làm việc, cống hiến. Vì thế, tôi nghĩ, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không nên chỉ khuôn phép, hành chính, mà làm thế nào để tư tưởng ấy thấm vào trong máu thịt của mỗi người. Tôi dành nhiều thời gian để nghiên cứu, tích lũy và viết về Bác cũng chỉ mong góp được một chút vào không gian Hồ Chí Minh đang lan tỏa ở nước ta và hy vọng đáp ứng được phần nào đó về sự mong muốn tìm hiểu, yêu kính Bác Hồ của nhân dân, nhất là lớp trẻ.

- Cho đến thời điểm này ông đã viết bao nhiêu cuốn sách về Chủ tịch Hồ Chí Minh? Cuốn sách nào về Người ông tâm đắc nhất?

+ Trong kháng chiến, miền Nam yêu cầu có những bài ngắn về Bác, cơ quan giao cho tôi. Từ nhiệm vụ đáp ứng cho chiến trường đó, tôi đã có nhiều bài viết về Bác. Sau này, tôi tu chỉnh, bổ sung để xuất bản cuốn "Miền Nam trong trái tim Người", là những bài ghi chép lại những cuộc gặp của Bác Hồ với cán bộ, chiến sĩ trong Nam ra. Sau đó, tôi xuất bản tiếp cuốn "Người là niềm tin", tập hợp bài của các tác giả miền Nam viết về Bác, để nói lên niềm tin với Bác của các chiến sĩ cách mạng miền Nam. Rồi cuốn "Đường Bác Hồ đi cứu nước", tôi đọc từ cả trăm cuốn sách và chọn lọc một số đoạn nối lại theo chuỗi thời gian của Bác, giúp người đọc hiểu rõ về hành trình cứu nước của Người. Cuốn sách đã in 17 lần rồi.

Sau hòa bình, tôi viết "Từ làng Sen đến Bến nhà Rồng", tái bản 22 lần. Đến giờ, tôi đã viết 7 cuốn về Bác. Tác phẩm "Theo dấu chân Người" trong hơn 1 năm đã có 4 nhà xuất bản in 8 lần và phát hành cả vạn bản, tôi phải đọc rất nhiều cuốn sách, nhiều tài liệu mới chắt chiu được tư liệu để viết. Viết về Bác, tôi nghĩ dù là truyện ký, văn học, nghĩa là có hư cấu, thì tính chính xác, chất tư liệu phải đúng. Viết càng đúng, càng đủ về Bác, sự hấp dẫn sẽ càng cao. Những tác phẩm tôi viết trước, gợi mở cho tôi viết những tác phẩm sau. "Đường Bác Hồ đi cứu nước" giúp tôi viết "Theo dấu chân Người" và "Từ làng Sen đến Bến nhà Rồng" thúc đẩy tôi viết cuốn sách vừa viết xong: "Người đi, muôn trùng non nước". Tôi muốn bằng văn học đưa đến độc giả về một hành trình đúng của Bác, có đối thoại, để mang đến góc nhìn chân thực, nhân văn, giản dị, gần gũi nhất của Bác Hồ.

GS.TS - Đại tá Trình Quang Phú, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông giao lưu với độc giả tại buổi ra mắt tập truyện ký Theo dấu chân Người.
GS.TS - Đại tá Trình Quang Phú, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông giao lưu với độc giả tại buổi ra mắt tập truyện ký Theo dấu chân Người.

- Đã có rất nhiều cuốn sách, nhiều công trình nghiên cứu đồ sộ viết về Bác Hồ, vậy ông gặp những áp lực gì khi viết về Người?

+ Thực tế, thông tin về Bác Hồ có rất nhiều, từ sách, báo, các tài liệu lưu trữ... Nhưng, có những thông tin sai lệch, không nhất quán, cùng một chuyện nhưng 2-3 người viết với những thông tin khác nhau. Điều đó đòi hỏi sự nghiên cứu kỹ lưỡng và kiểm chứng. Ngoài ra, khi viết về Bác sẽ liên quan đến những nhân vật lịch sử cùng thời với Bác, sẽ tái hiện họ như thế nào. Đó là những điều tôi trăn trở. Nhiều đêm, trong giấc ngủ, tôi mơ về những điều mình đang nghĩ về Bác Hồ. Phải nung nấu, cọ xát rất nhiều. Phải viết thế nào để thể hiện đúng về tuổi trẻ của Bác, cái gì đã thôi thúc Bác, điều gì đã giúp Bác thêm ý chí, vững quyết tâm, vượt qua mọi trở ngại để ra đi tìm đường cứu nước.

GS.TS Trình Quang Phú chúc mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân năm 2004.
GS.TS Trình Quang Phú chúc mừng Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhân ngày thành lập Quân đội nhân dân năm 2004.
GS. TS Trình Quang Phú cùng nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình trao tặng Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam những kỷ vật xưa.
GS. TS Trình Quang Phú cùng nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình trao tặng Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam những kỷ vật xưa.

- Trong quá trình nghiên cứu, điều gì khiến ông xúc động sâu sắc về con người Hồ Chí Minh - vượt ra khỏi những gì sách giáo khoa hay tài liệu chính thống đã viết?

+ Đó là một con người từ nhỏ đã có chí lớn. Một người đã hiến tất cả cho dân tộc mình. Bác là người giản dị, gần gũi với mọi người, nhưng vô cùng vĩ đại, và càng vĩ đại Bác Hồ càng giản dị.

- Ông đã đi qua một hành trình với khối lượng công việc đồ sộ. Vậy, điều gì kết nối con người văn chương, ngoại giao, văn hóa, học thuật - nhiều con người trong một con người Trình Quang Phú?

+ Tôi nghĩ, văn chương, báo chí giúp tôi làm tốt những công việc khác. Nó giúp tôi biết nhìn xa trông rộng, đối đáp tốt, xử lý mọi vấn đề nhanh nhạy, đi trước thời cuộc. Trong nghề tình báo, cái áo của nhà báo là cái áo đẹp nhất. Trong công tác ngoại giao, có tư chất nhà báo sẽ giúp mình làm tốt nhiệm vụ. Và, trên tất cả là tổ chức của người lính, người sĩ quan an ninh đã giúp tôi tận hiến.

- Từ hơn 20 năm nay, ông được cử làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển phương Đông, nơi nghiên cứu các vấn đề văn hóa, giáo dục, kinh tế... Với tư cách một trí thức, ông quan niệm thế nào là "trách nhiệm lịch sử"?

+ Phương Đông chúng ta truyền thống về gia đình sum họp, về tình thương yêu với nhau, tình làng nghĩa xóm. Đó là tình yêu đất nước, là sức mạnh của hai chữ "Đoàn kết". Mỗi người hãy góp một chút công sức của mình thì nhất định sẽ dựng được đất nước phồn vinh. Tạp chí Phương Đông của Viện Nghiên cứu phát triển phương Đông ra hằng tháng luôn có những bài viết sâu về giá trị của văn hóa phương Đông, về cách gìn giữ và phát huy nó. Hiện, Viện đang làm nhiệm vụ gìn giữ và nhân rộng giá trị phương Đông, trong đó có giá trị văn hóa, lịch sử. Chúng tôi tổ chức các hội thảo như "Đổi mới căn bản giáo dục Việt Nam", "Phát huy giá trị văn hóa Tây Nguyên", "Cơ chế nào để doanh nghiệp tư nhân phát triển", "Đổi mới tư duy để phát triển giáo dục đại học Việt Nam"... Hơn 50 cuộc hội thảo cấp quốc tế, quốc gia và tọa đàm khoa học đã diễn ra. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, tôi nghĩ, muốn phát triển khoa học - công nghệ hay kinh tế tư nhân thì cái lõi vẫn cần quan tâm đó là tư duy, là nhân cách con người. Nói cách khác là văn hóa.

- Vậy, ông có thể nói về lõi của văn hóa, con người Việt là gì?

+ Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi". Văn hóa chính là hồn cốt, là tâm thức, là nguồn cội. Đó mới chính là bệ phóng vững chãi giúp đất nước phồn thịnh.

- Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện thú vị này!

Theo Chuyên đề ANTG Giữa tháng-Cuối tháng

tin liên quan

Đất anh hùng - Hội tụ những anh hào!
Đất anh hùng - Hội tụ những anh hào!
QTO - Nhắc đến làng Võ Xá, xã Võ Ninh cũ (xã Quảng Ninh, tỉnh Quảng Trị mới) là nhắc đến một vùng đất anh hùng thuộc “bát danh hương”: “Sơn, Hà, Cảnh, Thổ- Văn, Võ, Cổ, Kim”. Trong cao trào chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 ở phủ Quảng Ninh và tỉnh Quảng Bình, Võ Xá được lịch sử lựa chọn làm nơi hội tụ những “hạt giống đỏ” lãnh đạo cách mạng: Lê Đình Triển, Phạm Xuân Tuynh, Võ Thuần Nho, Đoàn Khuê, Đồng Sỹ Nguyên...
Chợ chuối miền núi biên giới
Chợ chuối miền núi biên giới
QTO - Đã nhiều năm nay, dù trời mưa hay nắng, không kể ngày thường hay lễ, Tết, chợ chuối đầu mối ở xã miền núi biên giới xã Lao Bảo, tỉnh Quảng Trị luôn tấp nập kẻ bán, người mua. Hàng đoàn xe máy của người dân trồng chuối khắp các bản làng thuộc các xã: Lìa, Lao Bảo, A Dơi… nối đuôi nhau ken kín trên các tuyến đường đưa sản phẩm vào khu vực chợ Tân Long để trao đổi, mua bán với thương lái khắp nơi về đây thu gom mặt hàng này để xuất khẩu.
Một hành trình, nhiều khát vọng
Một hành trình, nhiều khát vọng
QTO - Vượt qua nhiều ứng cử viên và các vòng phỏng vấn khắt khe, em Lê Minh Hiếu, học sinh Trường THPT Quảng Trị vinh dự là 1 trong 16 đại biểu ưu tú đại diện cho Việt Nam tham dự Chương trình Tàu Thanh niên Đông Nam Á - Nhật Bản (SSEAYP) lần thứ 49 năm 2026 được tổ chức vào tháng 2 năm sau. Đây là cơ hội để Minh Hiếu trải nghiệm, học hỏi và mang hình ảnh về mảnh đất, con người Việt Nam nói chung, Quảng Trị nói riêng đến với bạn bè quốc tế.