Tạo sức bật mới cho vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ
(QT) - Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị khóa IX “Về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ đến năm 2010”, với việc huy động được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sự nỗ lực của toàn dân, sự năng động của cộng đồng doanh nghiệp, sự phối hợp giữa các bộ, ngành, các địa phương nên những năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng. Kinh tế - xã hội của toàn vùng có mức tăng trưởng khá, quốc phòng, ...

Tạo sức bật mới cho vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ

(QT) - Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 16/8/2004 của Bộ Chính trị khóa IX “Về phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ đến năm 2010”, với việc huy động được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị, sự nỗ lực của toàn dân, sự năng động của cộng đồng doanh nghiệp, sự phối hợp giữa các bộ, ngành, các địa phương nên những năm qua đã đạt được những kết quả quan trọng. Kinh tế - xã hội của toàn vùng có mức tăng trưởng khá, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Nhờ đó đã tạo được những điều kiện quan trọng cho khu vực này phát triển đi lên, rút ngắn khoảng cách so với các vùng kinh tế ở hai đầu đất nước.

Để tạo sức bật mới cho vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra từ nay đến năm 2020, ngoài sự nỗ lực của từng địa phương trong vùng, rất cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của Chính phủ, các bộ, ngành trung ương trong việc quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của vùng; đổi mới cơ chế, chính sách huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư, nhất là xây dựng hệ thống hạ tầng kết nối miền Trung với các vùng trong cả nước, với các nước trong tiểu vùng sông Mê kông; ban hành đồng bộ các cơ chế, chính sách về quản lý, sử dụng đất đai; đầu tư cho nghiên cứu khoa học và đào tạo nhân lực phục vụ phát triển cả vùng…

Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ gồm 14 tỉnh, kéo dài từ Thanh Hóa đến Bình Thuận, là vùng đông dân nhất cả nước với 18,94 triệu người, chiếm 21,9% dân số cả nước. Hiện nay kinh tế toàn vùng đạt mức tăng trưởng khá, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, đã giảm dần tỉ trọng nông nghiệp, tăng dần tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ. Các ngành, lĩnh vực đều có bước phát triển; đã có một số sản phẩm, dịch vụ mới có chất lượng với hàm lượng công nghiệp cao. Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 18%/năm; thu ngân sách tăng 20,5%/năm. Thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài đạt kết quả khá, tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ngày càng tăng. Kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hệ thống giao thông trong vùng được đầu tư mở rộng theo hướng hiện đại. Nhiều công trình, dự án trọng điểm đã và đang được triển khai thực hiện. Kinh tế biển, đảo đã được chú trọng, góp phần tích cực bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền trên biển của Tổ quốc. Văn hóa - xã hội có bước phát triển và đạt được những kết quả tích cực; giáo dục - đào tạo, y tế phát triển nhanh; công tác xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, bảo đảm an sinh xã hội có nhiều tiến bộ; đời sống của nhân dân trong vùng từng bước được cải thiện. Hệ thống chính trị không ngừng được củng cố và kiện toàn; chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được đảm bảo, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Tuy nhiên so với mục tiêu, yêu cầu đề ra vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Kinh tế toàn vùng tăng trưởng cao nhưng chưa bền vững, chất lượng và năng lực cạnh tranh còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Chuyển dịch kinh tế chậm, công nghiệp gia công, lắp ráp còn chiếm tỉ trọng lớn trong giá trị sản xuất công nghiệp của vùng; công nghiệp phụ trợ, chế biến sâu nông - lâm - thủy sản chậm phát triển. Chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp chưa cao; quản lý, sử dụng tài nguyên thiên nhiên hiệu quả thấp; kinh tế biển, đảo phát triển chậm; chất lượng dịch vụ còn thấp. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch còn nhiều yếu kém. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh, bền vững; không gian kinh tế vùng chưa hình thành rõ nét, chưa phát huy được liên kết vùng để phát triển. Văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường còn nhiều hạn chế, có mặt không theo kịp yêu cầu của cuộc sống, gây bức xúc xã hội. Kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng miền còn lớn… Để tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ của Nghị quyết số 39-NQ/TW nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ đến năm 2020 theo Kết luận số 25-KL/TW ngày 2/8/2012 của Bộ Chính trị, yêu cầu đặt ra cho cấp ủy đảng các tỉnh, thành trong vùng là cần quán triệt để nhận thức rõ vị trí, vai trò, địa bàn chiến lược của vùng, từ đó bố trí lực lượng sản xuất đảm bảo tính hợp lý, hiệu quả, phát huy tối đa lợi thế của toàn vùng cho phát triển. Trên cơ sở những thành tựu đạt được, mục tiêu đề ra từ nay đến năm 2020 là cải thiện căn bản đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân; đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào các xã đặc biệt khó khăn, vùng căn cứ kháng chiến. Hạn chế tối đa ảnh hưởng của thiên tai lũ bão, hạn hán, bảo vệ môi trường sinh thái; ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu, đặc biệt là nước biển dâng. Phấn đấu giai đoạn 2011-2020 tạo việc làm cho khoảng 400.000 lao động/ năm; giảm tỉ lệ hộ nghèo từ 2-3%/năm (theo chuẩn mới); nâng cao sức khỏe của người dân, tăng tuổi thọ bình quân lên 75 tuổi, giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng xuống còn 10%, nâng độ che phủ của rừng từ 47,8% lên khoảng 58% vào năm 2020. Về phát triển kinh tế, cần chú trọng việc đẩy mạnh sử dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, tăng sức cạnh tranh của các sản phẩm, của doanh nghiệp trong vùng. Giảm nhanh tỉ trọng xuất khẩu các sản phẩm thô không qua chế biến; tăng sản phẩm xuất khẩu, sản phẩm có hàm lượng khoa học, công nghệ cao. Kinh tế biển phải trở thành ngành kinh tế quan trọng, được đầu tư trang bị công nghệ hiện đại đảm bảo phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, giữ vững chủ quyền biển, đảo, thềm lục địa của Tổ quốc. Hình thành được một số sản phẩm chủ lực của vùng mang thương hiệu Việt Nam, có khả năng cạnh tranh quốc tế; ưu tiên phát triển và hiện đại hóa các dịch vụ du lịch, vận tải, đào tạo, y tế. Phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Để tạo sức bật mới cho vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra từ nay đến năm 2020, ngoài sự nỗ lực của từng địa phương trong vùng, rất cần có sự hỗ trợ, giúp đỡ của Chính phủ, các bộ, ngành trung ương trong việc quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của vùng; đổi mới cơ chế, chính sách huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực đầu tư, nhất là xây dựng hệ thống hạ tầng kết nối miền Trung với các vùng trong cả nước, với các nước trong tiểu vùng sông Mê kông; ban hành đồng bộ các cơ chế, chính sách về quản lý, sử dụng đất đai; đầu tư cho nghiên cứu khoa học và đào tạo nhân lực phục vụ phát triển cả vùng… Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ tạo đà cho toàn vùng phát triển toàn diện, bền vững, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, góp phần cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020, như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra. PHƯƠNG MINH