Đọc “Dưới chân Thành Cổ” và “Dòng sông ký ức” của Trương Đức Minh Tứ
QTO - Đầu xuân rồi, trong cuộc gặp gỡ đồng hương Quảng Trị ở TP. Hồ Chí Minh, thật vui với tôi là được gặp gỡ và hội tụ nhiều bạn bè, anh em, đặc biệt là các cây bút thơ, văn, báo chí của quê nhà Quảng Trị: Trần Trọng Dũng, Phó Chủ tịch Hội nhà báo Việt Nam; Nguyễn Khắc Văn (Phó TBT Báo SGGP); Bùi Phan Thảo (TKTS Báo Người Lao động), Đoàn Minh Phong (Nguyên Phó TBT Báo Phụ Nữ) và đặc biệt là nhà báo Trương Đức Minh Tứ từ Quảng Trị vào. Anh là Tổng Biên tập Báo Quảng Trị, Chủ tịch Hội Nhà báo Quảng Trị, một cây viết rất sung sức, gặt hái nhiều giải thưởng báo chí và văn chương trong những năm qua.

Đọc “Dưới chân Thành Cổ” và “Dòng sông ký ức” của Trương Đức Minh Tứ

Đầu xuân rồi, trong cuộc gặp gỡ đồng hương Quảng Trị ở TP. Hồ Chí Minh, thật vui với tôi là được gặp gỡ và hội tụ nhiều bạn bè, anh em, đặc biệt là các cây bút thơ, văn, báo chí của quê nhà Quảng Trị: Trần Trọng Dũng, Phó Chủ tịch Hội nhà báo Việt Nam; Nguyễn Khắc Văn (Phó TBT Báo SGGP); Bùi Phan Thảo (TKTS Báo Người Lao động), Đoàn Minh Phong (Nguyên Phó TBT Báo Phụ Nữ) và đặc biệt là nhà báo Trương Đức Minh Tứ từ Quảng Trị vào. Anh là Tổng Biên tập Báo Quảng Trị, Chủ tịch Hội Nhà báo Quảng Trị, một cây viết rất sung sức, gặt hái nhiều giải thưởng báo chí và văn chương trong những năm qua.

Nói về Trương Đức Minh Tứ, tôi nhớ lời một người cha, người chú, một bậc thầy của tôi cũng quê hương Quảng Trị là nhà báo lão thành Phan Quang: “Đọc ký báo chí của Trương Đức Minh Tứ, tôi thấy văn anh hấp dẫn không chỉ nhờ giàu thực tế trước mắt và dĩ vãng chưa xa. Tác giả có kiến văn không riêng về quê hương, anh còn biết nhiều chuyện khác rộng hơn, chứng tỏ anh là người chịu đọc, chịu học, chịu tìm hiểu, lắng nghe, cần cù tích lũy vốn sống để vươn dần lên độ chín…”

Đọc “Dưới chân Thành Cổ” và “Dòng sông ký ức” của Trương Đức Minh Tứ

Nhà báo Trương Đức Minh Tứ

Được một bậc trượng thượng đánh giá như thế, ắt không thể chuyện thường... Trương Đức Minh Tứ người Quảng Trị, tuổi trẻ đam mê và theo đuổi văn chương từ giảng đường văn khoa Đại học Tổng hợp Huế.

“Tôi đến với nghề báo sau khi tốt nghiệp khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng Huế như là một cơ duyên... Bài báo đầu tiên tôi viết về ký ức thời sinh viên Văn khoa cho báo Thừa Thiên Huế sau khi rời Huế 10 năm có cái tựa “Cảm nhận Huế từ những ngày xa Huế”.

Sau đó Tạp chí Đại học Huế đăng lại đã lấy một câu trong ca khúc “Thương về miền Trung” của nhạc sĩ Châu Kỳ mà tôi có trích trong bài để đặt lại tít bài nghe rất lâm ly: “Huế ơi! Tôi vẫn còn thương”. Vâng, với Huế, với bạn bè Văn khoa một thuở, với người con gái đi qua thời ngây thơ vụng dại tôi đã từng thương và mãi mãi sẽ còn thương.

Tôi không phải là người con của xứ Huế, nhưng Huế trong tôi là cả một trời kỷ niệm thời sinh viên. Những năm tháng sống ở cố đô, Huế với tôi thật gần gũi, bình dị như Quảng Trị quê hương tôi, một mảnh đất phóng túng đầy nắng gió cách Huế không bao xa, dù biết rằng Huế rất riêng, rất riêng với tính cách Huế; rất riêng với kinh thành có kỳ đài sừng sững, thành cổ rêu phong; là sông Hương, núi Ngự thơ mộng; là lăng tẩm, chùa chiền cổ kính; cả mùa hoa phượng đỏ ối phía dòng Hương của những mùa hè dịu ngọt...

Thế mà thật lạ, tôi cảm nhận ra Huế bắt đầu từ những ngày xa Huế. Đấy là kỷ niệm những đêm mùa đông đói quay đói quắt vẫn cùng bạn bè sấp mặt học chữ Hán Nôm nguệch ngoạc, Tiếng Nga ngắc ngứ; là những đêm hè nóng bức, cái nóng như tăng thêm bởi âm thanh xập xình của nhà máy điện di-e-den nằm cạnh cư xá 27 - Nguyễn Huệ nhưng vẫn ngồi hát sáng đêm; là những đêm thơ bốc lửa nghi ngút hương trầm với những giọng thơ hào sảng của bạn bè trong đêm xa vắng; là những bữa chờ cơm tập thể ngồi tán dóc chuyện từ Á sang Âu, tranh luận từ văn chương đến thế sự...

Chuyện thời sinh viên Văn khoa thì nhiều, nhưng có lẽ nhớ nhất vẫn là chuyện yêu đương, chuyện học hành, chuyện ở cư xá với bạn bè trong những ngày đói quay đói quắt, nhớ về tình đồng môn, tình huynh đệ…”

Sau khi tốt nghiệp, Trương Đức Minh Tứ cùng những bạn học khác như nhà thơ Văn Công Hùng (sau là Phó Chủ tịch Hội VH - NT Gia Lai) tình nguyện lên Gia Lai Kon Tum công tác. Rồi năm 1990, Trương Đức Minh Tứ trở về quê hương Quảng Trị, làm ở Báo Quảng Trị. Anh đi nhiều, viết khỏe, con người anh như được tôi luyện trong nắng gió gay gắt của quê hương, và văn chương anh cũng như được tôi luyện trong chuyện làm ăn, chuyện thế sự đời người cũng của miền nắng gió gay gắt này...

Nhà báo Bảo Trung viết: “Đọc các tập bút ký, phóng sự, ghi chép của Trương Đức Minh Tứ như Cỏ xanh dưới chân Thành Cổ, Thông điệp cho mai sau, Dòng sông ký ức… người ta được nghe tiếng nói của quê hương đồng hiện, liền mạch trong chủ lưu bất tận nối liền quá khứ - hiện tại; có nối vui tiếp nối sau những niềm đau của bao số phận trong diễn trình của lịch sử, của hôm qua và hôm nay. Sự kiện, nhân vật trong tác phẩm của Trương Đức Minh Tứ được nhìn nhận một cách chính xác, chi tiết của tư duy báo chí, thêm vào đó là sự bay bổng, tinh tế được soi chiếu qua mỹ cảm “phép biện chứng tâm hồn” của một người viết văn.

Bởi thế, từng trang viết của anh luôn có sức gợi, lay thức và luôn hấp dẫn, tạo được nhiều dư ba trong lòng người đọc. Như từng hạt muối thêm, dăm dòng lệ tiếp, ngôn ngữ của Trương Đức Minh Tứ đưa bạn đọc nhận diện, tiệm cận với bao âm vọng của cuộc đời, làm đầy thêm hành trang của họ; thi ảnh hóa trong miền – tâm – thức thẳm sâu từng phút sống đã qua, bao lượng đời đã trải, thắp sáng những vùng bóng tối, tươi mới mọi cỗi cằn…

Đất mẹ Quảng Trị - mạch nguồn dinh dưỡng nuôi ngòi bút và tâm hồn nhà báo Trương Đức Minh Tứ - nơi có căn nhà rường cũ khiêm nhường ở ngoại ô thành phố Đông Hà, luôn là chốn đi về của anh sau bao ngày tháng nhọc nhằn nặng gánh mưu sinh.

Anh tựa vào kỷ niệm để tìm tấm vé thông hành trở về với tuổi thơ, nghe lại lời ru của mẹ - lời quê hương ngọt ngào; lắng lòng theo nhịp vỗ về, thao thiết của dòng sông Hiếu bên ngoài kia đang ngày đêm miệt mài xuôi trôi về biển lớn”.

Cùng là họ Trương, cùng quê hương Quảng Trị, tôi không biết có họ hàng bà con gì với anh hay không, nhưng thú thật tôi yêu văn anh, thích tính cách mềm mại, ân tình của anh. Đặc biệt sự say mê với công việc, với văn chương và báo chí của anh.

Tôi thật sự yêu những dòng viết như thế này của anh, hết sức chân thật và ấm áp về quê hương tôi Quảng Trị, mà dường như phải đọc Trương Đức Minh Tứ, tôi mới được gặp và được cảm xúc khôn nguôi. Tôi luôn đón chờ những dòng viết như thế này của anh...

“Ai mua chắt chắt không?” - Trời quê tôi đã bước sang mùa mưa lũ, vậy mà chị vẫn đôi quang gánh, gánh chắt chắt đi từ ngõ này sang ngõ khác, từ xóm trên xuống xóm dưới. Vào những ngày gió Lào quạt lửa, tiếng rao của chị nghe lánh lót, còn bây chừ nghe não nề, lê thê. Mẹ tôi gọi: “Vào đây chị...”.

Ngồi trong nhà nhìn trời, tôi chặc lưỡi: “Trời mưa này có ai ăn chắt chắt mà rao...”. Mẹ tôi mắng: “Thằng này biết chi, tao mua cho người ta kẻo tội”. Chỉ quẩy gánh vào nhà mặt mày hớn hở, vô tư: “Mua đi bà chị, trời mưa hạ giá, 10 loong (lon) chị cho năm ngàn cũng được”.

Nhìn trời mưa rỉ rắc đã buồn, nghe chị nói càng buồn hơn, chừng ấy tiền chưa bằng tiền tôi ngồi đốt thuốc vô vị nhìn mưa buồn từ sáng đến giờ. Tôi lây tình cảm của mẹ: “Mẹ lấy thêm vài lon rồi trả cho chị chục ngàn luôn thể”. Tôi ảnh hưởng mẹ nhiều, tính thương người chợt trở lại khi về bên mẹ.

Tôi dám quả quyết rằng loài hến, ngao thì có ở khắp nơi, nhưng còn con chắt chắt, món ăn ngọt ngào này thì chỉ có vài nơi, trong đó có Quảng Trị. Mà con chắt chắt cũng chỉ có ở sông Hiếu và sông Thạch Hãn.Tôi không biết nhiều về các loài sinh vật nhưng cũng hiểu lơ mơ chắt chắt thuộc loài hến, tuy hình dạng thì nó nhỏ hơn, cũng có lẽ vì vậy mà người ta gọi nó một cách dân dã là chắt chắt.

Món ăn này từ dân xịn đến dân thường đều biết. Ngày hè nóng nực, mua vài ngàn là ăn đã đời...”

Trương Nguyên Việt

Trương Nguyên Việt