Các giải pháp thực hiện bê tông hóa giao thông và kiên cố hóa kênh mương trong xây dựng nông thôn mới
(QT) - Thực hiện Quyết định số 1509/QĐ- UBND ngày 24/8/2012 của UBND tỉnh Quảng Trị về phê duyệt kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) xây dựng nông thôn mới (NTM) giai đoạn 2012-2015, dự kiến đến năm 2020, đến nay, phong trào thi đua “Quảng Trị chung sức xây dựng nông thôn mới” đã triển khai tại 117 xã trên toàn tỉnh, bước đầu đạt được những kết quả quan trọng. Đặc biệt thực hiện Nghị quyết số7.d/2002/NQ-HĐND ngày 31/01/2002 về Chương trình bê tông hoá giao ...

Các giải pháp thực hiện bê tông hóa giao thông và kiên cố hóa kênh mương trong xây dựng nông thôn mới

(QT) - Thực hiện Quyết định số 1509/QĐ- UBND ngày 24/8/2012 của UBND tỉnh Quảng Trị về phê duyệt kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) xây dựng nông thôn mới (NTM) giai đoạn 2012-2015, dự kiến đến năm 2020, đến nay, phong trào thi đua “Quảng Trị chung sức xây dựng nông thôn mới” đã triển khai tại 117 xã trên toàn tỉnh, bước đầu đạt được những kết quả quan trọng. Đặc biệt thực hiện Nghị quyết số7.d/2002/NQ-HĐND ngày 31/01/2002 về Chương trình bê tông hoá giao thông nông thôn giai đoạn 2002-2015 và Nghị quyết số 6.6/2005/NQ-HĐND ngày 15/12/2005 về Chương trình kiên cố hoá kênh mương giai đoạn 2005-2015 của HĐND tỉnh - khóa V đề ra, theo đó, ngân sách địa phương phải đầu tư hỗ trợ bình quân khoảng 30 tỷ đồng/năm để thực hiện 2 chương trình trên theo cơ chế Nhà nước và nhân dân cùng làm (vùng đồng bằng 60/40 và vùng miền núi 90/10).

Đường trục thôn được mở rộng theo quy hoạch đón chờ vốn đầu tư

Trong những năm qua, UBND tỉnh, các ngành, đoàn thể và các địa phương đã tập trung chỉ đạo, hướng dẫn, phân bổ, lồng ghép các nguồn vốn cho xây dựng các công trình thiết yếu và hỗ trợ phát triển sản xuất cho các xã thí điểm của tỉnh, huyện. Kết quả đến nay có nhiều xã tăng 3-5 tiêu chí, trong đó có nhiều xã đạt các tiêu chíquan trọng như: điện, bưu điện, trường học, thu nhập, giáo dục, y tế, hình thức tổ chức sản xuất. Tuy nhiên, các tiêu chí về giao thông, thủy lợi, cơ sở vật chất văn hóa hầu hết các xã chưa đạt do mức đầu tư quá lớn, trong khi đó vốn hỗ trợ trực tiếp của chương trình, nguồn vốn lồng ghép từ các chương trình, dự án, nguồn vốn hỗ trợ của các doanh nghiệp, HTX, các tổ chức tín dụng, nguồn lực đóng góp của dân và đặc biệt là nguồn đầu tư từ ngân sách địa phương còn hạn chế, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện các tiêu chí trong xây dựng NTM. Theo số liệu điều tra nông nghiệp-nông thôn năm 2011 của Cục Thống kê (chỉ tính riêng cho 30 xã thí điểm): Đường trục thôn có 497,144 km, trong đó được cứng hoá là 177,725 km, đạt tỷ lệ 35,75%. Đường ngõ, xóm có 480,71 km, trong đó được cứng hoá là 168,34 km, đạt tỷ lệ 35,02%. Đường trục chính nội đồng có 706,89 km, trong có được cứng hoá 60,794 km, đạt tỷ lệ 8,6%. Kênh mương cấp 3 do cấp xã quản lý có 608 km, trong đó đã được kiên cố hoá 142 km, đạt tỷ lệ 23,36%. Theo chuẩn NTM đến năm 2015 quy định: Tỷ lệ ki lô mét đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông- Vận tải phải đạt > 70%; tỷ lệ ki lô mét đường trục chính nội đồng được cứng hóa phải đạt >70% và tỷ lệ ki lô mét kênh mương do xã quản lý được kiên cố hóa phải đạt > 85%. Theo đó, đến năm 2015, tỉnh Quảng Trị phải thực hiện cứng hóa trên 223 km đường trục thôn, 218 km đường ngõ xóm, 452 km đường trục chính nội đồng và kiên cố hóa gần 400 km kênh mương do xã quản lý mới đạt chuẩn NTM theo quy định. Mặc dù trong những năm qua, UBND tỉnh đã có quyết định phân bổ vốn đầu tư nhằm thực hiện Nghị quyết của HĐND tỉnh, nhưng mức đầu tư vẫn chưa đáp ứng nhu cầu, còn dàn trải, thiếu tập trung, chủ yếu là phân đều cho các địa phương nên hiệu quả mang lại chưa cao. Hiện tại các xã trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là 30 xã thí điểm NTM của tỉnh, huyện, phong trào thi đua xây dựng NTM đang phát triển sâu rộng, nhân dân tích cực hiến đất, hiến tài sản, đóng góp công sức và tiền bạc để giải phóng mặt bằng, mở rộng các tuyến đường, chỉnh trang đường làng ngõ xóm, nạo vét kênh mương, tập trung phát triển sản xuất...với nhiều cách làm sáng tạo, mang lại hiệu quả cao. Qua đó, người dân đã phát huy được vai tròchủ thể xây dựng NTM của mình. Để kịp thời hỗ trợ các địa phương hoàn thiện cơ sở hạ tầng NTM, ngoài nguồn vốn đầu tư trực tiếp của chương trình, tỉnh cần giao nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ban ngành có trách nhiệm lồng ghép các nguồn vốn để hoàn thành các tiêu chí của ngành tại 30 xã thí điểm; kêu gọi các doanh nghiệp đầu tư, hỗ trợ, huy động thêm các nguồn lực khác... Trong đó, việc hỗ trợ bằng xi măng của tỉnh làmột giải pháp hết sức quan trọng trong điều kiện hiện tại để thực hiện xây dựng các công trình phục vụ sản xuất và đời sống. Trước mắt cần tập trung thực hiện 2 chương trình bê tông hóa giao thông nông thôn và kiên cố hóa kênh mương nội đồng theo các Nghị quyết của HĐND tỉnh, tập trung đầu tư cho 30 xã thí điểm xây dựng NTM của tỉnh theo hướng: Cho phép các công ty xi măng ký hợp đồng cung ứng xi măng phục vụ xây dựng NTM đến tận xã với giá cả cạnh tranh (như giảm giá, hỗ trợ lãi suất, trả chậm...), đảm bảo có lợi cho người dân; kế hoạch cung ứng xi măng được lập từ xã trên cơ sở đề án xây dựng NTM xã; UBND huyện tập hợp, thẩm định, phê duyệt kế hoạch của xã gửi Sở Kế hoạch và Đầu tư, Văn phòng điều phối Chương trình MTQG xây dựng NTM tỉnh tập hợp kế hoạch toàn tỉnh; các sở, ngành chuyên môn cấp tỉnh cân đối các nguồn lực đầu tư để điều chỉnh kế hoạch và thống nhất trình UBND tỉnh quyết định phương án đầu tư. Nguồn vốn mua xi măng được sử dụng các nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho NTM, nguồn vốn đầu tư có mục tiêu theo Nghị quyết HĐND và đề xuất với Chính phủ cho tỉnh vay các nguồn vốn ưu đãi trả chậm để đầu tư cho NTM. Về cơ chế hỗ trợ: Nhà nước hỗ trợ xi măng, vật liệu xây dựng (cát, sạn, gỗ và các loại vật liệu chuyên dụng, máy thi công...) với mức tối đa là 60% (vùng đồng bằng), 90% (vùng miền núi) theo dự toán và hỗ trợ 100% thiết kế mẫu, thiết kế điển hình để thực hiện bê tông hóa giao thông nông thôn và kiên cố hóa kênh mương nội đồng; nhân dân đóng góp thêm vốn, toàn bộ công, tự nguyện giải phóng mặt bằng xây dựng công trình. Ban quản lý NTM xã tổ chức cho nhân dân thi công công trình, giám sát công trình và quá trình vận hành, bảo dưỡng công trình. Để tiết kiệm đầu tư, đề nghị UBND tỉnh cho mở một số mỏ vật liệu xây dựng đã quy hoạch nhằm tạo điều kiện cho các địa phương tổ chức khai thác theo kế hoạch để phục vụ cho các công trình cơ sở hạ tầng NTM trên địa bàn. Thực hiện được các giải pháp trên là điều kiện tiên quyết giúp cho 30 xã thí điểm của tỉnh, huyện hoàn thành cơ bản 2 tiêu chí giao thông và thủy lợi, tạo đà và lực để triển khai thực hiện các tiêu chí khác, là hướng đột phá mang tính quyết định để hoàn thành mục tiêu đến năm 2015 có 20% số xã đạt chuẩn NTM như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứXV đã đề ra. Bài, ảnh: HOÀNG ĐỨC DƯỠNG