Từ thuở lập bản, lập làng, giống lúa nếp than (đệp cù cha) đã theo bước chân thiên di bất định của đồng bào Pa Kô lang bạt khắp các cánh rừng Trường Sơn để ươm trồng qua bao mùa lúa rẫy. Cứ ngỡ giống lúa nếp than chỉ thích hợp nảy mầm trên nương rẫy bám vào sườn đồi; rẫy chạy dọc bờ suối; rẫy ngự trên đỉnh đồi cao hun hút sương mây, thì nay giống lúa nếp than đã trút bỏ “tính đỏng đảnh” để chịu nảy mầm trên những thửa ruộng thiếu nước ở xã A Ngo, Tà Long… trong khát vọng trở thành sản phẩm OCOP chủ lực của huyện Đakrông.
Người dân xã A Ngo gieo cấy giống lúa nếp than ở thửa ruộng thiếu nước - Ảnh: H.A
1. Có lần, mướt mồ hôi với chặng đường mòn chỉ vừa một người đi, dài dằng dặc băng qua khe, suối rồi leo ngược lên ngọn đồi nằm tựa vào đỉnh núi cao sừng sững, tôi cùng chị Hồ Thị Niêm ở bản A Đeng (xã A Ngo, huyện Đakrông) mới đặt chân đến đám rẫy trồng nếp than rộng chừng 2 sào. Có theo chân chị Niêm, tôi mới hiểu được ngọn nguồn sức dẻo dai vốn có của đồng bào Pa Kô.
Thì ra, người Pa Kô sống ở núi cao, quanh năm làm bạn với gió núi, mây ngàn và những đồi dốc ngoằn ngoèo trơn trượt. Họ trèo dốc nhanh nhẹn và dẻo dai như loài báo đốm. Và không ai khác, chính đồng bào Pa Kô qua bao mùa du canh thuở xa xưa đã tạo ra những đám rẫy trồng lúa nếp than cao ngút lưng đồi, cứ ngỡ dẫm lên những đám rẫy ấy, người ta sẽ với được trời.
Chị Niêm chia sẻ, giống lúa nếp than có từ lâu đời và được người Pa Kô gìn giữ nguồn giống qua từng mùa nương rẫy. Muốn trồng được giống lúa nếp than thì ngay từ đầu năm (khoảng tháng 1 đến tháng 3 dương lịch) phải lên đồi cao chặt cây, phát sim mua, cỏ tranh để hình thành nên đám rẫy rồi sau đó chờ nắng ráo thì đốt thực bì. Đến tháng 4 bắt đầu mang hạt giống lên rẫy dùng cây chọc lỗ để tra hạt giống xuống. Đến tháng 10, tháng 11 thì vào vụ gặt nếp than.
Mới đây, có dịp trò chuyện với Nghệ nhân ưu tú Kray Sức ở xã Tà Rụt (huyện Đakrông), tôi được biết rằng trong tâm thức của đồng bào Pa Kô, từ xa xưa đã mặc định giống lúa nếp than nếu mang xuống gieo trồng ở chân ruộng trồng lúa nước thì không bao giờ nảy mầm. Giống lúa này phải trồng ở đồi cao, ở lưng chừng núi và dù cho mùa hè nắng như đổ lửa, mùa đông rét buốt, sương giá đến mấy thì cây vẫn phát triển xanh tốt.
Còn nếu bón phân thì đến cuối vụ xem như “gặt lá” chứ chẳng có hạt nào. Có lẽ từ quan niệm trồng giống lúa nếp than trên nương rẫy, không bón phân nên năng suất thấp cộng với việc khi gieo trồng giống nếp này đòi hỏi điều kiện thổ nhưỡng, thời tiết khắt khe như vậy nên theo thời gian có ít gia đình người Pa Kô trồng. Người ta chỉ tập trung chọn trồng lúa nước, sắn, ngô… cho năng suất, giá trị kinh tế cao để cải thiện cuộc sống vốn còn khó nghèo của gia đình họ.
Nếp than là 1 trong số 13 sản phẩm nông nghiệp được huyện Đakrông đăng ký danh mục ý tưởng sản phẩm tham gia chương trình OCOP. Từ những mùa lặng lẽ trên nương rẫy chỉ để giới hạn trong việc làm ra những chiếc bánh vuông, tròn như bánh peng a chooih, peng tamăr, peng a koat, rượu men lá… trong các dịp lễ hội của đồng bào Pa Kô, nay giống lúa này đã chịu nảy mầm, trĩu hạt trên những thửa ruộng thiếu nước với năng suất, sản lượng cao để tính cuộc “vuông tròn” khác trong hành trình trở thành sản phẩm OCOP chủ lực của huyện Đakrông. |
Có lẽ do sinh trưởng trong điều kiện thổ nhưỡng, thời tiết khắc nghiệt đã tạo nên độ dẻo thơm, giàu chất dinh dưỡng của giống lúa nếp than mà không một giống nếp nào sánh kịp. Ngày xưa, đồng bào Pa Kô xem nếp than là phương thuốc để chữa bệnh đường ruột, dùng cho trẻ nhỏ mới ốm dậy hay phụ nữ sau khi sinh…
Trong bếp ăn của đồng bào Pa Kô luôn hiện diện nếp than mỗi khi có khách quý đến nhà chơi hay các dịp lễ cúng trọng đại trong gia đình, bản làng. Cứ vào các dịp lễ hội như Puh Boh (lễ giữ rẫy), Aya (hội mùa), Ariêu Ping (lễ bốc mả), Kăl năng Mương (Hoàn ân thổ thần)… sẽ không thể thiếu các loại bánh peng a chooih, peng tamăr, peng a koat, rượu men lá… được làm từ nếp than đã tạo nên nét đặc trưng trong hệ thống lễ hội của dân tộc Pa Kô.
Và các loại bánh peng a chooih, peng tamăr, peng a koat nếu chế biến bằng các loại gạo nếp thông thường thì sẽ mất đi hương vị đặc trưng của núi rừng Trường Sơn.
2. Trước thực trạng nhiều giống cây trồng nguồn gốc tại địa phương, có chất lượng và giá trị kinh tế cao như chuối lùn, nếp than… đang bị thoái hóa, mai một dần, thời gian qua huyện Đakrông đã tập trung triển khai thực hiện các giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển giống cây trồng này góp phần lưu giữ nguồn gen quý và mở ra hướng đi mới trong sản xuất các sản phẩm đặc trưng.
Riêng giống lúa nếp than chỉ cách đây vài năm được đồng bào Pa Kô gieo trồng trên nương rẫy hoàn toàn phụ thuộc vào tự nhiên mà không hề có sự chăm sóc, bón phân, phun thuốc phòng trừ dịch bệnh… nên năng suất rất thấp. Giống lúa nếp than không được tuyển chọn qua các vụ sản xuất cũng dần bị thoái hóa…
Để bảo tồn cũng như nâng cao giá trị kinh tế từ giống lúa nếp than, thông qua nguồn vốn hỗ trợ phát triển sản xuất của Chương trình 135, vụ hè thu 2019, huyện Đakrông đã hỗ trợ 11 hộ dân ở xã Tà Long xây dựng mô hình trồng lúa nếp than trên chân ruộng thường xuyên thiếu nước. Và giống lúa nếp than đã cho năng suất 38 - 39 tạ/ha.
Đến nay, có khoảng 20 hộ dân ở bản Tà Lao, Ly Tôn (xã Tà Long) tiếp tục mở rộng diện tích trồng lúa nếp than. Tại xã A Ngo, vụ hè thu 2021, huyện Đakrông đã hỗ trợ người dân xây dựng mô hình trồng giống lúa nếp than thí điểm trên diện tích 0,25 ha cạnh công trình thủy lợi Kỳ Xay (bản A Đeng), cho năng suất 40 tạ/ha.
Sau khi trừ các khoản chi phí, mô hình đã mang lại lợi nhuận cho các hộ dân tham gia khoảng 100 - 120 triệu đồng/ha. Vụ đông xuân 2021 - 2022, xã A Ngo mở rộng diện tích trồng lúa nếp than lên khoảng 7 ha với 37 hộ tham gia. Dự kiến trong các năm tới, xã A Ngo sẽ tiếp tục nhân rộng diện tích trồng lúa nếp than lên 20 - 25 ha trên địa bàn toàn xã.
Mùa gặt lúa nếp than ở xã A Ngo - Ảnh: H.A
Chủ tịch UBND xã A Ngo Hồ Tất Huấn cho biết, bên cạnh việc mở rộng diện tích, thời gian tới xã sẽ chú trọng hướng dẫn người dân kỹ thuật canh tác giống lúa nếp than theo phương thức canh tác tự nhiên, hoàn toàn không dùng phân bón hóa học, thuốc diệt cỏ, thuốc bảo vệ thực vật hóa học và các chất kích thích sinh trưởng.
Người dân chỉ sử dụng phân hữu cơ; quá trình chăm sóc sẽ sử dụng các chế phẩm vi sinh như đạm cá lên men, nước trái cây lên men, nước thân cây lên men; phòng trừ sâu bệnh bằng các loại thảo mộc như gừng, tỏi, ớt, cây thuốc lá…
Có thể nói trồng lúa nếp than theo phương thức canh tác tự nhiên khá phù hợp với tập quán canh tác của đồng bào Pa Kô bởi quá trình tạo phân bón và chế phẩm phòng trừ sâu bệnh trong canh tác lúa tự nhiên thực ra rất dễ làm, nguyên liệu sẵn có và chi phí thấp hơn hẳn so với canh tác lúa theo phương pháp thông thường.
Trước mắt, xã A Ngo với sự hỗ trợ tích cực của huyện Đakrông sẽ từng bước nhân rộng diện tích trồng lúa nếp than; tìm nguồn lực để hỗ trợ làm nhãn mác, bao bì đóng gói tiêu thụ sản phẩm; từng bước liên kết với các địa phương khác trên địa bàn huyện Đakrông để xây dựng thương hiệu nếp than nhằm nâng tầm giá trị sản phẩm, tạo được dấu ấn và sức lan tỏa sản phẩm OCOP của huyện Đakrông trên thị trường trong tương lai.
Hải An