(QT) - Nhân chuyện Đông Hà hướng đến cấu trúc “thành phố bên sông” trong quy hoạch phát triển không gian đô thị, tôi nhớ đến những nền văn minh rực rỡ đã phát tích bên những dòng sông và nghĩ về vị thế của sông Hiếu với Đông Hà, dòng sông xanh làm mát hồn Đông Hà phố. Mạch nguồn sông Hiếu phát tích từ núi Tá Linh, ngọn núi cao nhất tỉnh Quảng Trị, thuộc địa phận xã Hướng Linh, huyện Hướng Hóa. Thế núi Tá Linh “cao vót tầng mây, mạch núi và nguồn nước trong hạt đều tự đấy ra. Thuyền đi ngoài biển cũng trông vào núi này để nhận phương hướng, thật là trấn sơn của đạo” (Đại Nam nhất thống chí, Tập 1, NXB Thuận Hóa, Huế, 2006, tr. 157).
![]() |
Chợ Đông Hà nhìn từ sông Hiếu. Ảnh: PV |
Đứng ở sân thượng Khách sạn Sài Gòn - Đông Hà phóng tầm mắt khoáng đạt nhìn sông Hiếu đang sải cánh thênh thang vươn ra biển lớn, qua dòng Thạch Hãn và Cửa Việt, tôi nghĩ về sức vươn mới của Đông Hà khi kết nối với Khu Kinh tế Đông Nam Quảng Trị, nơi có cảng Cửa Việt, khu du lịch biển Cửa Việt và rồi sẽ có cảng hàng không sân bay Quảng Trị, đô thị Cửa Việt, cảng biển nước sâu Mỹ Thủy. Và đứng ở sân thượng này, nơi nhìn thấy bao quát “thành phố bên sông” ở trên cao, tôi đang đón đợi một người con Đông Hà, Quảng Trị đã vươn đến tầm cao trên đấu trường quốc tế, đó là xạ thủ Hoàng Xuân Vinh, vận động viên đoạt huy chương vàng và huy chương bạc tại Olympic Rio, Brazil, 2016. Chiến thắng ở nội dung 10m súng ngắn hơi nam với 202,5 điểm, phá kỷ lục Olympic, Hoàng Xuân Vinh là người Việt Nam đầu tiên đoạt huy chương vàng Olympic. Hình sông ấy, thế núi nọ, con người này. Lần này, quê hương gọi anh về để gặp mặt và chúc mừng thành tích vang dội của anh.
Anh nghỉ lại ở Khách sạn Sài Gòn - Đông Hà, khách sạn bên sông, như để cảm nhận và tận hưởng trọn vẹn ngọn gió mát sông Hiếu hào phóng. Anh và tôi đã có khoảnh khắc trò chuyện thú vị cùng nhau trên sân thượng khách sạn này. Anh đến với tôi, dáng người chắc đậm, tĩnh tại, nét mặt thật thà, hồn nhiên, ngỡ như anh là người chưa từng tỏa hào quang sáng láng trong những cuộc đăng quang nào. Giữa anh và tôi, cái lạ lẫm phút đầu đã tan biến, thay vào đó là sự gần gũi ngỡ như có tự thuở nào. Để có được thành tích huy hoàng, mang vinh quang về cho quê hương Quảng Trị và đất nước, anh đã trải qua một quá trình tập luyện vất vả, kiên trì và thi đấu thăng trầm. Anh kể anh theo môn bắn súng đã 17 năm, trong đó 5 năm trở lại đây là đạt đến độ chắc chắn, bền vững. Một người đạt đến thành tích đỉnh cao như anh, hẳn là đã tích lũy được nhiều bí quyết, kinh nghiệm nghề nghiệp.
Anh nói về chuyện bắn súng mà ngỡ như nói cả về chuyện tập trung tư duy, trí tuệ của người quản lý, lãnh đạo: “Muốn bắn tốt, tư duy phải khỏe, tập trung, mạnh, quyết đoán”. Điều đặc biệt thú vị là qua nghe anh nói, tôi mới nghiệm ra rằng, giữa việc rèn kỹ thuật bắn súng với việc rèn tâm trong yên lặng, tức là ngồi thiền, hai việc tưởng như đối nghịch nhau như nước với lửa hóa ra lại có mối tương quan với nhau. Thì đây, chuyện anh kể không khác gì chuyện hành thiền: “Trước khi tập bắn, tôi ngồi im lặng, hít vào thở ra, hít xuống tận đan điền” (đan điền, nghĩa là “ruộng trồng đan dược”, thuật ngữ trong y học, võ thuật, dưỡng sinh chỉ nơi tập trung nhiều khí lực hay là các huyệt đạo trên cơ thể người).
Tôi hỏi anh để có cách thức rèn luyện nâng cao hiệu quả chuyên môn, chắc anh đã học thêm kinh nghiệm của người nước ngoài. Tôi lại bị bất ngờ khi anh đưa ra khái niệm “bắn tư duy” và giải thích: “Bắn tư duy, tức là tập trung tâm trí, bắn bằng tư duy, bắn trong tưởng tượng, sao cho chính xác, trúng đích. Tôi nghĩ thế và đã rèn tập điều này, qua quan sát người nước ngoài”. Anh cho biết, anh đã tập “bắn trong tư duy” từ 1 giờ rưỡi đến 2 giờ mỗi ngày. Người bắn giỏi, bắn trúng đích là người trụ vững ở gốc, là người nắm chắc điểm xuất phát. Hoàng Xuân Vinh là người như vậy. Dẫu xa quê nhưng anh luôn hướng về cội gốc quê hương. Ông Hoàng Trinh, ông nội anh là người làng Đình Tổ, phường Đông Giang, thành phố Đông Hà, gia đình ông có truyền thống nhiều đời tham gia cách mạng. Ông Trinh có người con cả là Hoàng Tường và con thứ là Hoàng Anh sớm tham gia các hoạt động yêu nước.
Trong bảng ghi Danh sách tù chính trị bị đày ở nhà tù Lao Bảo đặt tại di tích Nhà đày Lao Bảo, có tên ông Hoàng Anh. Một người con nữa là Hoàng Xuân Hiền, liệt sĩ hy sinh trong trận đánh Phalang ở Lào, năm 1946, thời kháng chiến chống Pháp. Bà Lê Thị Soạn, bà nội anh Hoàng Xuân Vinh là người làng Trà Lộc, xã Hải Xuân, huyện Hải Lăng. Hàng năm, anh Vinh thường về Quảng Trị thăm bà con, họ hàng, thăm viếng nhà thờ, mồ mả tổ tiên. Anh đã tham gia đóng góp xây lăng mộ tổ họ Hoàng ở Đình Tổ. Những lần vào thị xã Quảng Trị, anh đều về Trà Lộc thắp hương viếng mộ bà nội, cố, vãi và o ruột của mình. Anh đã vào viếng Thành Cổ Quảng Trị, Nghĩa trang liệt sĩ tại thị xã Quảng Trị, Nghĩa trũng đàn, Nhà lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn…
Trong buổi gặp mặt và chúc mừng anh, UBND tỉnh Quảng Trị đã tặng bằng khen kèm theo tiền thưởng 50 triệu đồng cho anh, anh đã dành lại 25 triệu đồng giúp đỡ cho các em học sinh nghèo của tỉnh. Trong dịp này, anh đã trở về làng Đình Tổ để “vinh quy bái tổ”, thể hiện niềm tri ân sâu sắc với tổ tiên, dòng họ. Sau những ngày đăng quang ở nước ngoài và được vinh danh ở trong nước, trong tỉnh, anh đã cùng với huấn luyện viên của mình là chị Nguyễn Thị Nhung xây dựng quỹ từ thiện “Vinh quang và sự biết ơn” để hỗ trợ cho các gia đình, cá nhân có hoàn cảnh khó khăn ở các địa phương trong nước. Anh đã về Quảng Trị tổ chức nấu cháo và trao 150 suất cháo dinh dưỡng cho các bệnh nhân ở Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Trị, trao 100 suất quà cho học sinh nghèo vượt khó ở Đông Hà.
Anh Đoàn Hoàng Thạch ở phường 3, thị xã Quảng Trị là người anh con o ruột của anh Vinh, người mà anh Vinh rất thân và quý trọng đã tâm sự gan ruột với tôi về mối quan hệ anh em gắn bó thân thuộc và về tình cảm quê hương sâu nặng của anh Vinh: “Vinh quý anh vì anh thương Vinh, quan tâm gia đình Vinh. Bố Vinh vất vả, hai đời vợ mất do đau ốm. Tính Vinh hiền lành, dễ thương, anh em hợp tính nhau. Ý thức về nguồn cội trong Vinh rất sâu đậm. Cách đây 7 năm, có lần ra Hà Nội, anh đã tặng Vinh hai bức thư pháp “Cội nguồn” và “Mẹ” mà anh đã nhờ nhà thư pháp Hoàng Tấn Trung viết. Anh nghĩ, hai bức thư pháp này đã thể hiện hai điều mà Vinh nhớ sâu sắc, đó là “Cội nguồn” và “Mẹ”. Anh khen Vinh là khen cái đó. Anh tâm đắc với Vinh là tâm đắc cái đó”. Đắc ý, anh Thạch kể tiếp về khoảnh khắc giao cảm tuyệt vời của hai anh em mà cũng là của đôi tri kỷ: “Khi tôi tặng hai bức thư pháp này cho Vinh, Vinh nói: Răng anh hiểu em dữ ri!”.
Người xa quê thành danh như Hoàng Xuân Vinh đã về bên dòng sông Hiếu, uống lại nguồn nước dòng sông quê hương, huống chi những người dân Đông Hà lẽ nào lại không thiết tha, gắn bó với dòng sông đời mình. Không chỉ với nhiều người ở Đông Hà mà cả ở trong nước, có cả người nước ngoài nữa, khi đặt chân đến Đông Hà đã tìm đến với nhà hàng Phi Thuyền, một nhà hàng nổi trên sông Hiếu. Nhà hàng Phi Thuyền bềnh bồng trên mênh mang sóng nước, ở một quãng sông đẹp, gần trung tâm thành phố. Đôi vợ chồng Trương Minh Vương, Nguyễn Thị Linh, chủ nhân nhà hàng Phi Thuyền đã sớm dựng nhà hàng này trên sông từ năm 2003, lúc chưa có nhiều hàng quán mọc lên hai bờ sông Hiếu như bây giờ. Chị Linh kể với niềm yêu thích ý tưởng của chồng về nhà hàng nổi: “Anh Vương thích làm cái chi đó khác mọi người”. Cái khác mà các nhà hàng khác không có đó là đến với nhà hàng Phi Thuyền, khách vừa được hóng gió mát rượi từ sông Hiếu, vừa được ngoạn cảnh sông nước hữu tình, vừa tận hưởng thú vui ẩm thực trên sông.
Không gian, món ăn, hương vị ẩm thực… cũng đủ sức níu giữ chân khách đến đây không chỉ một lần. “Heo sữa là món riêng của nhà hàng, không có chỗ mô có mùi vị đặc trưng như vậy - Chị Linh hồn nhiên kể đầy vui mừng, tự tin - Có những khách Hà Nội vào đây lần đầu, lần sau họ đã tìm tới. Họ ăn xong còn lấy heo sữa ở đây đóng thùng mang về, bỏ vào lò vi sóng để dùng. Khách Lào sang đây ăn heo sữa cũng có người mua, đóng thùng mang về”. Để đem đến “cái khác” cho du khách thưởng thức, dĩ nhiên vợ chồng chị Linh phải vượt qua bao vất vả có tính đặc thù của “nghề sông nước”. Hàng năm, nhà hàng nổi này chỉ mở được 6 tháng, cao điểm là từ tháng 4 đến tháng 7. Sang tháng 8, tiết trời mưa gió, chị Linh phải cho kéo nhà hàng nổi vào gần bờ cho an toàn. Chiếc cầu dẫn mềm mại đưa đón bước chân khách từ bờ sông ra nhà hàng nổi có 4 vài về mùa hè, nhưng về mùa đông, chị Linh phải cắt bớt 2 vài để chuyển vào gần bờ. Khi lụt về thì cắt hết các vài cầu và neo nhà hàng nổi vào bờ. Chị Linh nói về nỗi bươn chải qua ngày đông tháng nắng:
- Mùa hè nước sông Hiếu nhiễm mặn. Hệ thống kết cấu phao của nhà hàng bị rét rỉ. Tôn trên mái cũng bị rỉ huống chi là sắt thép dưới nước.
- Tới đây, dự án đập ngăn mặn trên sông Hiếu sẽ được triển khai. Đập này được đặt ở vị trí phù hợp trên sông Hiếu để phát huy cao tác dụng, hiệu quả của nó. Chị có nghe và quan tâm điều này chứ?
- Tôi gợi chuyện, cũng là để tiếp thêm niềm hy vọng cho chị Linh trong nắng mưa dầu dãi.
- Em nghe thông tin có phương án ngăn mặn trên sông Hiếu - Chị Linh mừng rỡ hẳn - Có đập ngăn mặn thì càng thích làm. Không có đập ngăn mặn thì khó theo. Em thích làm nghề này. Nhưng tới đây, em có duyên làm trên sông nữa không thì không rõ.
Chuyện có duyên hay không có duyên với sông nước nữa mà chị Linh băn khoăn hóa ra là thế này: Bờ sông sẽ được làm kè, trên bờ sẽ quy hoạch lại làm công viên, quãng bến sông làm bãi đỗ xe cho khách xuống nhà hàng nổi Phi Thuyền lúc đó có còn dùng đỗ xe được không? Nhà hàng có được neo lại với quãng sông đẹp này như đã từng neo trong niềm nhớ của khách đến? Thay cho câu trả lời, anh Vương tâm sự với tôi rằng, anh muốn tiếp tục duy trì nhà hàng và có ý tưởng làm nhà hàng nổi này với dáng vóc mới hơn, đẹp hơn. Ý tưởng bao giờ cũng hay, nhưng để “có duyên làm trên sông” nữa không, Phi Thuyền phải tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về bảo vệ môi trường và bảo đảm an toàn trong mùa lụt bão.
Men theo đôi bờ sông Hiếu, du khách được thỏa thích phóng tầm mắt khoáng đạt của mình để ngắm cầu Đông Hà lượn giữa xanh thắm sông Hiếu, ngắm chợ Đông Hà, một điểm nhấn kiến trúc độc đáo, ấn tượng của Đông Hà.
Chợ Đông Hà được thiết kế với dáng những con thuyền san sát bên nhau, chính giữa là một con thuyền lớn dẫn dắt, đoàn thuyền bề thế, tỏa bóng rợp mát dòng xanh sông Hiếu và hướng về phía trước, hướng về khơi xa, nơi của những chân trời thương mại hấp dẫn vẫy gọi.
Anh Hồ Xuân Hiếu, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tổng Công ty thương mại Quảng Trị, một doanh nghiệp đóng cạnh chợ Đông Hà chia sẻ với tôi những ý tưởng tâm huyết của mình về phát triển chợ Đông Hà: “Nên có cơ chế tái cấu trúc lại việc buôn bán hàng hóa ở chợ Đông Hà, theo hướng 50% là hàng Việt Nam chất lượng cao, 50% còn lại là hàng Thái Lan, hàng ngoại nhập nhưng phải đảm bảo được hàng gốc, xuất xứ, thương hiệu. Cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các hộ tái cấu trúc hàng hóa. Mặt khác, quản lý thị trường phải kiểm tra chặt hàng hóa kinh doanh để giữ gìn thương hiệu chợ Đông Hà. Chợ Đông Hà có bãi đỗ xe rộng, tiện cho khách đến giao thương, mua bán”.
![]() |
Đua thuyền trên sông Hiếu. Ảnh: Phương Hoan |
Công ty cổ phần Tổng Công ty thương mại Quảng Trị đứng chân trên địa bàn Đông Hà không chỉ góp phần làm sôi động, nhộn nhịp thương trường Đông Hà mà điều đặc biệt, Công ty là “cánh tay nối dài” của Đông Hà vươn ra khắp tỉnh, trong nước và nước ngoài. Công ty có ba mũi hoạt động: mũi sản xuất, mũi thương mại xuất nhập khẩu và mũi dịch vụ, phục vụ. Mũi sản xuất là mũi chủ lực (chiếm đến 60% doanh số) với 5 nhà máy: sắn Hướng Hóa, cao su Cam Lộ, gỗ Cam Hiếu, nông sản Đông Hà, thức ăn gia súc Đông Hà (Khu Công nghiệp Nam Đông Hà) và có khoảng 20 mặt hàng có thương hiệu tốt, được công nhận sở hữu trí tuệ. Đặc biệt, sản phẩm tiêu Cùa và tinh bột sắn Hướng Hóa của Công ty đã đạt Giải thưởng Chất lượng Quốc tế thế kỷ, hạng Vàng tại Giơ ne vơ, Thụy Sĩ do tổ chức Business Initiative Directions (BID), Tây Ban Nha trao năm 2014. Mũi thương mại xuất nhập khẩu có hệ thống đại lý cấp 1 ở 42 tỉnh, thành trong cả nước, phân phối 1.000 mặt hàng tiêu dùng Thái Lan, ngoài ra còn có hàng nhập của Mỹ, Hàn Quốc, Singapore…
Mũi dịch vụ, phục vụ có các dịch vụ du lịch như Khách sạn Sepon, Lữ hành Sepon, Khu nghỉ dưỡng Sepon ở Cửa Việt (Sepon Boutique Resort), ngoài dịch vụ ra, Công ty còn tham gia các hoạt động phục vụ như bình ổn thị trường dịp tết, cung ứng hàng cứu trợ bão lụt. Các sản phẩm của Công ty từ “bệ phóng” thương mại Quảng Trị, Đông Hà đã tỏa đi nhiều nước trên thế giới: tinh bột sắn đi Trung Quốc, hạt tiêu đi châu Âu, cao su đi châu Á, gỗ đi châu Âu và châu Mỹ, viên nén năng lượng đi Hàn Quốc, Nhật Bản… trong đó cao su, tinh bột sắn và gỗ là ba món “làm lớn” của Công ty, theo cách nói của anh Hiếu.
Đi xa như vậy, nhưng như câu ca dao mặn mà tình nghĩa “ anh đi anh nhớ quê nhà ”, sống giữa phồn hoa đô hội mà vẫn đậm “hồn quê”, Công ty là bà đỡ thân thuộc của nông dân Quảng Trị. Anh Hiếu coi niềm vui của nông dân như chính của Công ty mình khi kể: “Chúng tôi mua nông sản cho nông dân không dưới 500 tỷ đồng/năm. Gạo huyết rồng chúng tôi chế biến ra dùng làm trà gạo lứt, uống thay nước chè và dùng cho những nơi nấu bánh canh, gạo này cứng, ăn ngon miệng. Nguyên liệu gạo chúng tôi mua từ những vùng ngập mặn như Hà La, Triệu Phước, Triệu Phong, các xã ở Gio Linh, Hải Lăng… ”.
Với ưu thế của một thành phố ở ngã ba đường 9 và Quốc lộ Bắc - Nam, Đông Hà xác định thương mại dịch vụ là trọng tâm, là mũi nhọn và hiện lĩnh vực này đã chiếm 64% trong tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế.
Người ta thường nói “ bánh mì và hoa hồng ”. Người Đông Hà vốn ý thức sâu sắc điều này, ngoài chăm lo làm ăn, còn phải lo nuôi dưỡng hồn người. Thế nên ở Đông Hà, từ lâu đã hình thành nên một làng hoa nổi tiếng với cái tên rất đẹp, gợi lên niềm khát vọng thẳm sâu muôn đời của nhân loại: An Lạc. Làng An Lạc, nay thuộc phường Đông Giang, Đông Hà có hàng chục hộ dân chuyên nghề làm hoa, mỗi năm làm chừng 5 tháng, thu nhập bình quân 50 - 60 triệu đồng/năm, hộ khá thu nhập vài ba trăm triệu đồng mỗi năm. Hoa An Lạc có loại chuẩn và đẹp hơn các nơi khác, được bán cho không chỉ ở trong tỉnh mà cả ở các tỉnh như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, các tỉnh miền Nam… vào dịp tết.
Điều đặc biệt thú vị là ở làng hoa An Lạc có hai anh em ruột cùng làm nghề trồng hoa và đều thành công, được nhiều người biết tiếng, đó là anh Hoàng Kim Cường và anh Hoàng Kim Trương. Anh Cường làm hoa một thời gian, sau đó thôi trồng hoa để chuyển qua chuyên làm nghề cây cảnh. Thế mạnh của anh Cường là tự sản xuất cây cảnh. “Gần 1 ha đất dành cho sản xuất cây, có thể nói là… mênh mông, bát ngát - Anh Cường đầy phấn khích khi nói chuyện nghề - Hàng chục loại tự sản xuất như cau vua 5 - 7 năm, sanh, vạn tuế…
Tỷ lệ cây hao hụt ở đây ít, trong khi ngoài Bắc do mưa nên cây chết nhiều. Cỏ Nhật cũng tự sản xuất được hàng nghìn mét vuông, tự nhân giống rộng ra”. Dưới bàn tay chăm bẵm, tỉa tót tài hoa của anh, cây cảnh của anh đã góp mặt để làm đẹp cho cảnh quan nhiều nơi, từ Nhà Văn hóa tỉnh, Bệnh viện tỉnh, trụ sở các cơ quan trên địa bàn tỉnh, trục chính đường Hùng Vương, Đông Hà, Tượng đài giao bưu - thông tin liên lạc Dốc Miếu, dải phân cách Quốc lộ 1 ở Hồ Xá, Vĩnh Linh… đến một số nơi ở Huế.
Anh cười đùa với vẻ tự trào nghề nghiệp: “Thành phố Đông Hà phải tặng cho tôi bằng khen về môi trường”. Anh Trương, em anh Cường là hộ trồng hoa lớn nhất ở An Lạc. Ban đêm, đi trên Quốc lộ 1 qua cầu Đông Hà, phía Bắc sông Hiếu một quãng sẽ thấy bên đường, về phía tay phải là cả một vườn hoa của anh Trương đang vươn cánh, khoe sắc dưới ánh điện lung linh. Khác với những hộ chỉ trồng hoa vào thời vụ giáp tết, anh Trương trồng hoa quanh năm, với hơn 20 loại hoa, trong đó có những loại hoa khó trồng, kén tay người trồng như hoa đồng tiền, hoa chuông (tử la lan)...
Anh đã đầu tư hệ thống nhà kính với 6 nhà kiên cố để trồng hoa. Phòng Kinh tế thành phố Đông Hà đã triển khai đề tài, dự án “ Xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất hoa, rau trên địa bàn thành phố Đông Hà, giai đoạn 2013 - 2015: mô hình hoa đồng tiền trồng chậu ” ngay trên vườn hoa của anh. Mượn chữ “duyên” của nhà Phật thì thấy, với anh Trương, duyên hoa mà cũng là duyên đời. Khu đất anh Trương trồng hoa chính là khu đất đặt mộ tổ họ Hoàng của anh. Anh đưa hoa An Lạc tỏa hương thơm ngát nhiều nơi là nhờ duyên tổ, ơn tổ giúp đỡ vậy. Anh chăm lo hương khói cho tổ với tất cả niềm thành kính và tri ân sâu sắc.
Ai đó đã dùng từ “hàng hoa” để nói về những vẻ đẹp mong manh, dễ mất trong đời. Không, hoa ám ảnh đời người cả khi còn sống lẫn khi đã khuất. Hoa nở từ tâm người nở ra cuộc đời nên người đời mới có hoa cúng, hoa dâng, hoa tặng. Tất cả vì niềm An Lạc, như tên của làng hoa bên sông Hiếu!
“ An lạc từng bước chân ”.
Bước đầu tiên, ngày 13/12/2005, Đông Hà được công nhận là đô thị loại 3. Bước tiếp theo, ngày 11/8/2009, Đông Hà trở thành thành phố thuộc tỉnh Quảng Trị. Và bước kỳ vọng tới đây, năm 2020, Đông Hà trở thành đô thị loại 2. Để đạt được kỳ vọng đó, có nhiều giải pháp thực hiện được đặt ra như tạo cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế, lấy thương mại dịch vụ làm mũi nhọn, phát triển công nghiệp xây dựng, công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp; tự cân đối thu chi của thành phố, trên cơ sở tạo thêm nguồn thu từ phát triển thương mại và đề nghị tỉnh phân cấp mạnh nguồn thu cho Đông Hà; tập trung đầu tư hạ tầng kinh tế đô thị và kiến trúc cảnh quan; xây dựng các tuyến phố văn minh…
Đông Hà có nhiều hướng liên kết để phát triển đô thị: Hướng ra Gio Linh, xuôi về Cửa Việt nối với Khu Kinh tế Đông Nam Quảng Trị như đã nói ở trên; hướng theo tuyến kinh tế động lực đường 9; hướng theo đường Hùng Vương nối dài vào huyện Triệu Phong. Nhiều hướng nhưng Đông Hà đã xác định trục chính của thành phố là dòng sông Hiếu, Đông Hà sinh sôi trên lưu vực dòng sông Hiếu. Khu đô thị Bắc sông Hiếu (phía Tây Quốc lộ 1A) đã bắt đầu hình thành, cho dẫu muộn, vì ý tưởng về khu này đã có từ năm 2006. Một số cơ quan như Sở Kế hoạch và Đầu tư, Bảo hiểm Xã hội tỉnh đã “tiên phong” chọn đất và xây dựng trụ sở mới ở đây.
Hạ tầng khu đô thị mới này dự kiến sẽ hoàn thành xong trong năm 2020 với quy mô 30 ha. Nếu khu này được thực hiện thành công sẽ có điều kiện mở Khu đô thị Bắc sông Hiếu thứ hai ở phía Đông Quốc lộ 1A. Rồi hệ thống cầu qua sông Hiếu. Thành phố đã có cầu Đông Hà, cầu sông Hiếu, rồi đây sẽ có thêm cầu nối tuyến tránh phía Đông thành phố (tuyến này có chiều dài 25,3 km, tổng mức đầu tư 1.300 tỷ đồng bằng nguồn vốn hợp tác công tư PPP) và theo anh Nguyễn Chiến Thắng, Chủ tịch UBND thành phố nói thì có ý tưởng cho rằng, giữa cầu đường sắt qua sông Hiếu và cầu Đông Hà cần có một cây cầu nữa. Phải có nhiều cầu nối đôi bờ sông Hiếu để tạo nên sự kết nối hài hòa, bền vững của cấu trúc thành phố bên sông.
Lại nhớ, anh Thắng từng nêu với tôi một điều đáng giật mình: “Nếu đô thị bờ Bắc sông Hiếu mà phát triển như bờ Nam, thành phố chỉ có một cây cầu Đông Hà thôi thì sẽ tắc ngay”. Phải làm sao đừng để bị tắc. Phải khai thông mạch nghĩ, cách làm. Vậy hẳn là phải học cách đột phá, cách “bắn trong tư duy” của xạ thủ huy chương vàng Olympic Hoàng Xuân Vinh, người con tài năng vang tiếng của quê hương Đông Hà, Quảng Trị: “Muốn bắn tốt, tư duy phải khỏe, tập trung, mạnh, quyết đoán”.
Nguyễn Hoàn