Đưa thông tin khoa học công nghệ về với địa bàn nông thôn, miền núi
(QT) - Trong quá trình phát triển KT-XH của địa phương hay cả nước, khoa học công nghệ (KHCN) không chỉ góp phần xây dựng luận cứ cho chiến lược phát triển KT-XH, các chính sách, quy hoạch, kế hoạch... mà còn là công cụ đắc lực để đổi mới quản lý, đưa lực lượng sản xuất phát triển, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, xây dựng nền khoa học tiên tiến nhằm đáp ứng yêu cầu của thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Đối với tỉnh Quảng Trị vấn đề này càng có ý nghĩa to lớn hơn bởi ứng dụng KHCN vào sản xuất sẽ giúp tỉnh tăng tốc phát triển. Việc cung cấp thông tin KHCN là một trong những điều kiện quan trọng để đẩy nhanh ứng dụng KHCN vào sản xuất, nhất là các vùng nông thôn, miền núi. Công nghệ thông tin (CNTT) ngày càng chiếm ưu thế trong mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội bởi tính tiện ích và hiệu quả của nó. Cuộc sống ngày càng phát triển thì sự ảnh hưởng cũng như lợi ích mà CNTT mang lại cho người sử dụng ngày càng cao. Do đó, việc thực hiện dự án “Xây dựng mô hình cung cấp thông tin KHCN về nông thôn và miền núi tỉnh Quảng Trị” do Trung tâm Tin học - Thông tin khoa học và công nghệ Quảng Trị đảm nhận là bước đột phá trong việc cung cấp thông tin KHCN cho người dân vùng nông thôn và miền núi của tỉnh.
 |
Thư viện xã thường xuyên thu hút người dân đến tìm kiếm thông tin, kiến thức |
Mục tiêu của dự án là ứng dụng tích hợp CNTT để giúp người dân tiếp cận với những thông tin về tiến bộ KHCN phục vụ sản xuất và đời sống, góp phần thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi vàđẩy nhanh tốc độphát triển KT-XH của địa phương theo hướng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; thiết lập cơ chế trao đổi và cập nhật thông tin hai chiều giữa cơ sở, địa phương và trung ương; tăng cường nguồn tin số hoá phục vụ phát triển KT-XH, rút ngắn thời gian áp dụng các thành tựu KHCN vào thực tiễn sản xuất; hỗ trợ công cụgiao tiếp tiên tiến cho các xã giới thiệu, quảng bá và trao đổi thông tin; nâng cao trình độ cán bộ xã trong việc ứng dụng CNTT phục vụ sản xuất và đời sống... Sau 2 năm triển khai, dự án đã xây dựng và vận hành 20 điểm thông tin KH&CN tại 20 xã của 9 huyện, thị xã, thành phố. Điểm thông tin KH&CN đặt tại trụ sở UBND xã rất thuận tiện cho công tác quản lý, điều hành và kết nối liên thông với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh. Mỗi điểm đều thành lập Ban quản lý dự án cơ sở do cán bộ xã kiêm nhiệm. Tại mỗi điểm dự án trang bị máy vi tính, máy in, USP, ti vi, máy photocopy, đầu đọc đĩa, lắp đặt hòa mạng, kết nối internet và các thiết bị văn phòng khác. Trung tâm Tin học- Thông tin KH&CN tỉnh thường xuyên chỉ đạo về chuyên môn, theo dõi và kiểm tra sâu sát tại 20 điểm để xử lý những tác nghiệp kịp thời cho các điểm như giải quyết những vấn đề nảy sinh, trợ giúp kỹ thuật, tổ chức và bổ sung cơ sở dữ liệu (CSDL), khắc phục trục trặc chương trình máy tính, làm cầu nối giữa các cơ quan, ban ngành trong tỉnh, huyện, xã để thúc đẩy triển khai dự án; đồng thời, chủ động cung cấp mới và bổ sung các sản phẩm thông tin theo yêu cầu cho 20 điểm thông tin KH&CN xã. Trung tâm Tin học- Thông tin KH&CN tỉnh là đơn vị đầu mối về “tiềm lực thông tin” phục vụ cho các điểm thông tin KH&CN xã, bao gồm: CSDL về cây, con, giống, mô hình làm ăn giỏi, phim khoa học; thông tin trên các bản tin, tin điện tử, tài liệu phổ biến tiến bộ KH&CN. Xuất phát từ nhu cầu thực tế, Trung tâm đã tiến hành lựa chọn, thu thập, xử lý, bổ sung các nguồn tin KHCN phục vụ cho các điểm xã gồm các bản tin thông tin KHCN, tin tức, sự kiện, hỏi và đáp về KHCN. Trung tâm cũng đã tích hợp trong thư viện điện tử xã trên 60.000 công nghệ, 1 phần mềm phát phim trực tuyến, 1.000 phim KHCN về các nội dung các thông tin về khoa học kỹ thuật phục vụ phát triển nông nghiệp, thông tin về chính trị, xã hội, văn hóa, thông tin về các chuyên gia, tổ chức tư vấn chuyển giao công nghệ... Mỗi đơn vị hưởng thụ dự án được xây dựng 1 chuyên trang thông tin điện tử được tích hợp trên website của Sở Khoa học và Công nghệ để cung cấp, giới thiệu, trao đổi về các hoạt động của xã. Tại điểm thông tin KHCN xã, Ban Quản lý cơ sở đã phối hợp với lãnh đạo xã lồng ghép vào các cuộc họp, giao ban tháng, họp dân, đài truyền thanh xã... để tuyên truyền, phổ biến về điểm thông tin KHCN cho nông dân trên địa bàn. Một số xã đã bổ sung thêm thiết bị như xã Vĩnh Thuỷ, Vĩnh Linh bổ sung thêm máy chiếu để trình chiếu các thông tin tại các cuộc họp dân. Xã Tân Liên, Hướng Hóa bổ sung thêm 1 tivi cỡ lớn cho bộ phận một cửa nhằm thông tin cho nông dân biết những thông tin từ điểm thông tin KHCN. Xã Trung Sơn, Gio Linh đã mở 7 lớp tập huấn tra cứu thông tin và chuyển giao khoa học kỹ thuật cho hơn 220 người dân trên địa bàn xã. Với CSDL phong phú, đa dạng, được chọn lọc phù hợp với điều kiện sản xuất của các xã, được tích hợp trong hệ thống thư viện điện tử KH&CN cho phép truy cập dữliệu một cách thân thiện, nhanh chóng, chính xác và đầy đủ. Ngoài ra, hàng tháng Trung tâm chuyển về mỗi xã 10 bản tin KH&CN đã tạo thêm nhiều cơ hội hơn trong việc tìm kiếm, khai thác và sử dụng thông tin, tạo được sự chủ động cho việc khai thác, sử dụng thông tin của cán bộ và người dân cơ sở. Cùng với việc chuyển giao bộ CSDL, Trung tâm tổ chức đào tạo về CNTT cho 840 lãnh đạo xã, cộng tác viên, tuyên truyền viên, kỹ thuật viên và nông dân của 20 xã. Nội dung đào tạo chủ yếu về kỹ năng khai thác thông tin, thu thập, xử lý, biên tập thông tin, nhân rộng các sản phẩm thông tin, tổ chức kho tư liệu, thu thập và tư liệu hoá nguồn tin, phổ biến tiến bộ KHCN trên địa bàn, sử dụng các thiết bị truyền tin, soạn thảo văn bản, quản trị dữ liệu, lưu trữ dữ liệu, quản trị chuyên trang thông tin điện tử của xã, kiến thức cơ bản khác về phần cứng, cách tìm kiếm và nhận biết các tài liệu đáng tin cậy từ các trang web chính thống… Tài liệu tin học được biên soạn công phu, dễ đọc, dễ hiểu, đối với nông dân phương pháp giảng dạy là bắt tay chỉ việc nên 100% học viên làm chủ được quá trình vận hành, khai thác, thành thạo cài đặt các phần mền ứng dụng, sửa chữa những lỗi thông thường; thành thạo cập nhật nội dung trên trang thông tin điện tử của xã, tìm kiếm được tài liệu KHCN trên internet thông tin một cách nhanh chóng, chính xác và đầy đủ. Sau hai năm hoạt động, điểm thông tin KH&CN các xã đã phát huy được chức năng nhiệm vụ của mình. Dự án được lãnh đạo và nhân dân các phường, xã hoan nghênh và phấn khởi tiếp nhận. Các điểm thông tin KHCN hiện đã đi vào hoạt động, các kỹ năng tác nghiệp về kỹ thuật chuyên môn và quản lý của các cán bộ phụ trách điểm thông tin KHCN đã ổn định và thành thạo. Số lượt người dân vào tìm kiếm, tra cứu thông tin ngày càng tăng, tính đến cuối năm 2013 toàn bộ 20 điểm đã hơn 750.000 lượt người truy cập. Đây thực sự là một trong những địa chỉ để nông dân, ban quản lý HTX, đội ngũ khuyến nông viên các thôn đến tra cứu, tìm hiểu khoa học kỹ thuật công nghệ, áp dụng vào trong sản xuất, nhằm không ngừng tác động phát triển KT-XH trên địa bàn. Nhiều mô hình đã được bà con áp dụng như mô hình nuôi lợn rừng, nuôi nhím, nuôi bồ câu Pháp, ấp trứng gà, trồng cao su tiểu điền, nuôi cá nước ngọt, trồng rau sạch, phát triển sản xuất bền vững với bảo vệ môi trường... Nhờ đó thu nhập bình quân đầu người tại các xã nâng cao 10-15%/năm (trong 2 năm 2012-2013). Bà Thái Thị Nga, Giám đốc Trung tâm Tin học- Thông tin Khoa học và công nghệ Quảng Trị cho biết: Việc xây dựng mô hình cung cấp thông tin KHCN về nông thôn và miền núi trên địa bàn tỉnh bước đầu tạo ra nhiều hiệu ích. Các điểm thông tin KH&CN xã đã thu hút được đông đảo người dân đến tra cứu và tìm kiếm thông tin KHCN phục vụ cho sản xuất và đời sống. Trung tâm cung cấp khá đầy đủ thông tin KHCN được số hóa, bằng tài liệu, bản tin... đã đáp ứng kịp thời và chính xác nhu cầu thông tin của người dân. Sau 2 năm triển khai dự án, tại các xã hưởng thụ trình độ cán bộ xã cũng như người dân đã có nhiều chuyển biến rõ rệt về nhiều lĩnh vực, nhận thức về mọi mặt được nâng cao, các tiến bộ KHKT được ứng dụng vào sản xuất nên hiệu quả đạt khá...” Bằng công nghệ số hoá các nguồn tin và kênh truyền tin trực tuyến và ngoại tuyến, tri thức KH&CN được phổ biến trực tiếp tới người dân nông thôn một cách nhanh chóng và chính xác. Từ đó, tạo sự bình đẳng giữa nông thôn và thành thị trong cơ hội tiếp cận và sử dụng thông tin, tri thức cho phát triển, hưởng thụ văn hoá, giáo dục. Người dân được tiếp cận với CNTT hiện đại và họ nắm được công nghệ nên tự tin vào bản thân, tin tưởng vào chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân, trong đó có chính sách phát triển dựa vào KH&CN. Thông tin được sử dụng như một nguồn lực kinh tế để sáng tạo ra của cải vật chất. Hàm lượng tri thức từng bước được đưa vào các sản phẩm và dịch vụ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ. Thông tin KH&CN đến trực tiếp với người dân giúp họ giải quyết công việc của mình một cách nhanh chóng và chính xác. Trang web của xã giúp cho xã có điều kiện tự giới thiệu về tiềm năng của mình, những sản phẩm và dịch vụ của xã với mọi người. Tác dụng của thông tin KH&CN trong việc nâng cao dân trí, nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần của cư dân vùng nông thôn là rất đáng kể, tạo được tính phát triển bền vững trong sản xuất của người dân khi được tiếp cận thông tin các tiến bộ kỹ thuật. Qua đó góp phần thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước đối với sự nghiệp phát triển KT-XH tại địa bàn nông thôn. Hình thành nên xã hội học tập, góp phần hoàn thiện mục tiêu cho chương trình nông thôn mới đang được triển khai trên địa bàn tỉnh. Nhu cầu thông tin KH&CN vùng nông thôn là rất lớn, cần thiết và đặc thù. Để các điểm thông tin KHCN xã tiếp tục phát triển và nhân rộng ra trên địa bàn toàn tỉnh khi dự án kết thúc, thiết nghĩ cần có sự ủng hộ của các cấp ủy đảng và chính quyền, sự quan tâm và ủng hộ của đông đảo nông dân; tăng cường hoạt động thông tin KH&CN, kết hợp hoạt động thông tin KH&CN với các tổ chức chuyên ngành và xã hội. Bên cạnh đó, cần có chính sách hỗ trợ kinh phí phát triển và nhân rộng mô hình. Tăng cường và nâng cao năng lực cho cán bộ đơn vị cung cấp thông tin. Xây dựng bộ CSDL về nông nghiệp nông thôn, phong phú, đa dạng, thường xuyên thanh lọc, bổ sung nhằm có được những thông tin có giá trị thiết thực. Đồng thời cần có sự phân loại tài liệu phù hợp với từng điều kiện sản xuất cụ thể của từng địa phương, nhằm khắc phục hiện tượng “nhiễu tin”. Chủ động tuyên truyền điểm thông tin KH&CN xã, cung cấp thông tin KH&CN theo mùa vụ và tình hình thực tế tại địa phương nhằm giúp người dân có được những thông tin một cách nhanh chóng, đầy đủ và chính xác. Bài, ảnh: VÕ THÁI HÒA