Do đồng chí Nguyễn Đức Chính, UVTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị trình bày tại kỳ họp thứ 18, HĐND tỉnh khoá V Thực hiện chương trình, nội dung kỳ họp thứ 18, Hội đồng nhân dân tỉnh khóa V, Ủy ban nhân dân tỉnh báo cáo kết quả giải quyết các ý kiến, kiến nghị của cử tri được nêu tại kỳ họp thứ 15 như sau: I. CÁC Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI THUỘC LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP - ĐẤT ĐAI - TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG: 1. Cử tri thị trấn Krông Klang huyện Đakrông kiến nghị sớm thu hồi đất của BQL rừng phòng hộ Hướng Hoá - Đakrông (Lâm trường Hướng Hoá cũ) để giao lại cho nhân dân trên địa bàn quản lý, sản xuất nâng cao đời sống. Ban quản lý rừng phòng hộ Hướng Hoá- Đakrông được thành lập theo Quyết định số 2378/QĐ-UBND ngày 12/12/2006 của UBND tỉnh Quảng Trị. Thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, hiện nay Sở Tài nguyên và Môi trường đang tiến hành đôn đốc BQL rừng phòng hộ Hướng Hoá - Đakrông khẩn trương tiến hành rà soát hiện trạng sử dụng đất, cắm mốc ranh giới trên thực địa và lập thủ tục cấp giấy CNQSD đất. Sau khi hoàn thành công tác rà soát hiện trạng sử dụng đất, cắm mốc ranh giới trên thực địa và lập thủ tục cấp giấy CNQSD đất, phần diện tích không được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất UBND tỉnh sẽ thu hồi để giao địa phương quản lý, sử dụng. 2. Cử tri huyện Vĩnh Linh đề nghị tỉnh trích lại một phần kinh phí từ nguồn đấu giá khai thác các mỏ ti tan để huyện đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Theo quy định tại Điều 7 Luật Khoáng sản: - "Căn cứ vào nguồn thu từ hoạt động khai thác và chế biến khoáng sản, Nhà nước hàng năm dành một khoản từ ngân sách để phát triển KT-XH ở địa phương nơi có khoáng sản được khai thác, chế biến; tạo điều kiện ổn định sản xuất và đời sống cho bộ phận nhân dân nơi có khoáng sản được khai thác, chế biến phải thay đổi nơi cư trú, nơi sản xuất; - Tổ chức, cá nhân được phép khai thác, chế biến khoáng sản có trách nhiệm kết hợp yêu cầu của hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản với việc xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo vệ, phục hồi môi trường, môi sinh và đất đai tại địa phương theo báo cáo nghiên cứu khả thi đã được chấp thuận; ưu tiên thu hút lao động tại địa phương vào hoạt động khoáng sản và các dịch vụ liên quan". Ngày 11/11/1999, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 219/1999/QĐ-TTg về chính sách bảo bộ quyền lợi của nhân dân địa phương nơi có khoáng sản được khai thác, chế biến và bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác và Bộ Tài chính đã có Thông tư số 76/2000/TT-BTC ngày 25/7/2000 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 219/1999/QĐ-TTg. Tại Điều 8 Quyết định số 219/1999/QĐ-TTg đã ghi rõ: "UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm lập dự toán kinh phí thực hiện phương án về đầu tư phát triển KT-XH của địa phương nơi có khoáng sản được khai thác, chế biến; phương án bảo hộ ổn định đời sống và sản xuất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nơi có khoáng sản được khai thác, chế biến phải thay đổi nơi cư trú, nơi sản xuất và phương án về bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác (nếu có) cho từng năm. Kinh phí để thực hiện sẽ được bố trí trong dự toán của ngân sách tỉnh cấp hàng năm". Trong thời gian vừa qua, UBND tỉnh giành một phần kinh phí từ việc thu phí đấu giá khai thác mỏ ti tan hỗ trợ cho các địa phương có mỏ đang khai thác để xây dựng cơ sở hạ tầng, tuy nhiên nguồn vốn đầu tư còn chưa ứng yêu cầu của các địa phương. Quan điểm của UBND tỉnh là ủng hộ đề xuất nêu trên. Trong thời gian tới, UBND tỉnh giao Sở Tài chính chủ trì phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Công thương kiểm tra tình hình thực tế, đề xuất chủ trương hỗ trợ cụ thể để UBND tỉnh trình HĐND tỉnh xem xét, quyết định. 3. Vấn đề ô nhiễm môi trường tại nhà máy cao su Camel: Công ty TNHH Cao su Camel Việt Nam là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/6/2004 với loại hình sản xuất săm lốp xe máy, công suất hàng năm khoảng 5.000 lốp xe máy/ngày và 20.000 săm xe máy/ngày. Ngày 5/1 1/2007 Cục trưởng Cục Bảo vệ môi trường đã có Quyết định số 2741/QĐ-BVMT về việc kiểm tra công tác bảo vệ môi trường của Khu kinh tế - Thương mại đặc biệt Lao Bảo, trong đó đoàn thanh tra đã kiểm tra và lấy mẫu giám định về chất lượng không khí tại Công ty TNHH Cao su camel Việt Nam. Tại Kết luận số 27/TB-BVMT ngày 12/3/2008 của Cục Bảo vệ môi trường (nay là Tổng cục Môi trường) về phân tích mẫu không khí và tiếng ồn xung quanh (10 thông số) so sánh với Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 5937:2005), cho thấy có 1 thông số vượt TCVN, cụ thể Bụi lơ lửng = l,65mg/m3 (TCVN - 0,3mg/m3), vượt 5,5 lần, ngoài ra Công ty đã vi phạm các hành vi không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường, không giám sát, quan trắc môi trường hàng năm tại khu vực sản xuất. Việc phản ánh của cử tri là đúng, hiện nay, UBND tỉnh đang chỉ đạo Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Cảnh sát môi trường, các ban ngành liên quan yêu cầu Công ty đầu tư khắc phục ô nhiễm. Đồng thời, sẽ đưa vào cơ sở này vào danh sách gây ô nhiễm môi trường cần phải xử lý để có biện pháp giám sát việc khắc phục ô nhiễm.. 4. Về vấn đề ô nhiễm môi trường tại Nhà máy chế biến cao su Gio Linh thuộc Công ty cao su Quảng Trị Nhà máy chế biến cao su Gio Linh thuộc Công ty cao su Quảng Trị hoạt động từ năm 1997 tại xã Gio Châu, huyện Gio Linh được UBND tỉnh Quảng Trị phê chuẩn báo cáo đánh giá tác động môi trường tại Quyết định số 1 1321QĐ-UB ngày 2819/1998 với công suất 4500 tấn/năm. Do khó khăn về kinh phí và chủ quan trong công tác BVMT nên trong những năm đầu (1997 - 2002), hoạt động của nhà máy đã gây ô nhiễm khu vực xung quanh, cơ quan quản lý môi trường (Trước đây là Sở KHCN&MT) đã nhiều lần kiểm tra và xử lý. Năm 2005, do diện tích khai thác mủ cây cao su tăng, Công ty đã nâng công suất lên 6000 tấn/năm, năm 2006 và 2007 Công ty đã mở rộng quy mô sản xuất đầu tư thêm hệ thống chế biến mủ tạp (công suất 4500 tấn/năm) nâng công suất của nhà máy lên 9000 tấn/năm do đó một số chỉ tiêu về môi trường vượt tiêu chuẩn cho phép về môi trường khoảng 60 lần. Thấy được thực trạng trên, Công ty cao su Quảng Trị đã cho xây dựng hệ thống xử lý nước thải với diện tích 2 ha, công suất 1500 m3 nước thải/ngày đêm với số vốn đầu tư hơn 9 tỷ đồng. Cuối năm 2008, Sở Tài nguyên và Môi trường đã xác nhận nước thải của Công ty thải ra môi trường đạt tiêu chuẩn cho phép về môi trường. Ngoài ra đối với việc gây ô nhiễm môi trường cho người dân thuộc thôn Lễ Môn xã Gio Phong, Công ty cũng đã có trách nhiệm trong việc đối thoại với người dân và đền bù thoả đáng những thiệt hại do phía Công ty gây ra. Hiện nay, UBND tỉnh đang yêu cầu Công ty tiếp tục giám sát, quan trắc chất lượng nước thải đầu ra đối với hệ thống xử lý nước vừa mới hoàn thành đưa vào sử dụng. 5. Về tình hình bảo vệ môi trường tại nhà máy Gỗ MDF: Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, thực hiện chỉ đạo của UBND, Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Phòng Cảnh sát môi trường, các ban ngành liên quan nhiều lần thanh kiểm tra Công ty CP gỗ MDF, đã phát hiện nhiều sai phạm của Công ty, cụ thể: - Chưa hoàn thiện việc xây dựng, lắp đặt thiết bị công trình xử lý nước thải theo đúng quy định, gây ô nhiễm môi trường. - Tự ý xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần ra khu dân cư phường Đông Lương và sông Vĩnh Phước. Công ty giám sát chất lượng môi trường tại khu vực không theo quy trình cam kết, vi phạm các quy định về bảo vệ môi trường. Các ngành chức năng đã yêu cầu Công ty ngừng việc xử lý nước thải ra bên ngoài, có biện pháp xử lý nước thải ở hồ chứa, tiến hành ngay việc xây dựng, lắp đặt các thiết bị xử lý nước thải theo đúng quy trình, công nghệ được cơ quan có chức năng phê duyệt. Sở Tài nguyên và Môi trường cũng đã kiến nghị UBND tỉnh đình chỉ sản xuất để hoàn thành hệ thống xừ lý nước thải, không cho nước thải chảy tràn giữa khu công nghiệp. UBND tỉnh đã cho gia hạn đến 7/2009 phải hoàn thành hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường. Nếu sau thời gian đó không hoàn thành sẽ đình chỉ hoạt động. Về khí thải, chất thải rắn (mùn cưa, gỗ vụn), Công ty đã vận chuyển hết lượng phế thải sản xuất ra các khu vực trồng cao su, tránh phát tán bụi trong mùa hè ra môi trường. Ban quản lý các Khu Công nghiệp tỉnh cũng đang tiến hành hoàn thiện hồ sơ mời thầu để xây dựng hệ thống xử lý nước thải cho khu công nghiệp, cố gắng đẩy nhanh tiến độ để đảm bảo công tác xử lý môi trường chung trong khu công nghiệp đạt được yêu cầu đề ra. 6. Về tình hình ô nhiễm môi trường tại Khách sạn Hiếu Giang: Khách sạn Hiếu Giang thuộc Công ty cổ phần du lịch Mê Kông, người dân xung quanh nhiều lần phản ánh tình trạng nước thải của Khách sạn Hiếu Giang không qua xử lý, trong quá trình sử dụng nước thải thấm qua vách ngăn hố chứa tràn ra ngập đường khu dân cư của khu phố 9, phường 2. Năm 2008, UBND thị xã Đông Hà đã xử phạt vi phạm hành chính đối với khách sạn Hiếu Giang với số tiền là 4 triệu đồng và yêu cầu Khách sạn lập bản cam kết BVMT theo quy định. UBND tỉnh đã yêu cầu UBND thị xã Đông Hà kiểm tra công tác bảo vệ môi trường và việc xây dựng hệ thống xử lý nước thải của khách sạn theo bản cam kết bảo vệ môi trường đã được UBND thị xã Đông Hà xác nhận. 7. Đối với việc ô nhiễm môi trường tại bãi rác thị xã Quảng Trị Bãi rác thị xã Quảng Trị nằm trong danh sách các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số 64120031QĐ-TTg của Thủ tướng. Trong những năm qua UBND thị xã Quảng Trị đã chỉ đạo Công ty TNHH 1 thành viên Đô thị và Môi trường thị xã triển khai nhiều biện pháp tích cực nhằm hạn chế ô nhiễm bãi rác. Tuy nhiên, hiện nay do quá trình đô thị hoá, lượng rác sinh hoạt cũng như các chất thải rắn trong xây dựng, sản xuất và sinh hoạt trên địa bàn ngày càng nhiều, trong khi đó, diện tích bãi rác chỉ gần 1 ha, nằm trong khu dân cư, trường học đặc biệt bãi rác nằm rất gần hồ Tích Tường (cách hồ khoảng 500m về phía Tây Nam) - nơi cung cấp nguồn nước sinh hoạt cho thị xã. Bên cạnh đó, việc xử lý còn rất thủ công, thô sơ nên không thể tiêu huỷ lượng rác tồn đọng trước đây. Đến nay, bãi rác đã quá tải, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Ngày 12/4/2005, tại Công văn số 27/TB-UB của UBND tỉnh đã giao cho Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì, phối hợp vời các ngành, địa phương liên quan đề xuất quy hoạch bãi chôn lấp rác thải cho thị xã Quảng Trị. UBND tỉnh đã chỉ đạo Sở TN&MT xây dựng đề án quy hoạch mạng lưới thu gom chất thải rắn đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 trình UBND tỉnh phê duyệt, trong đó có lựa chọn vị trí chôn lấp và xử lý rác lâu dài cho thị xã Quảng Trị. Hiện nay, các cơ quan liên quan trên địa bàn hoàn thiện các thủ tục về đất đai và môi trường để đóng cửa bãi chôn lập cũ di chuyển đến bãi rác hợp vệ sinh mới đã được quy hoạch. II. CÁC Ý KIẾN, KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI THUỘC LĨNH VỰC GIAO THÔNG VẬN TẢI: 1. Cử tri đề nghị tỉnh tăng mức vốn kiên cố hoá giao thông nông thôn hàng năm lên, vì số vốn bố trí hàng năm cho các huyện, thị xã rất thấp so với yêu cầu thực tế. Mục tiêu của Đề án kiên cố hoá giao thông nông thôn đến hết năm 2010 toàn tỉnh kiên cố hoá được 75% Km đường GTNT tương ứng 2.697 Km. Để đạt được mục tiêu đó, mỗi năm ngân sách đầu tư cho Chương trình bình quân 25-30 tỷ đồng (tính theo thời giá năm 2002). Nhưng đến hết năm 2008 do ngân sách đầu tư cho chương trình hàng năm còn hạn chế chỉ mới đáp ứng khoảng 42% (bình quân đạt 12,5 tỷ đồng/ năm). Số Km đường giao thông nông thôn mới được kiên cố hoá 966Km/2.697Km, đạt 36% kế hoạch. Vì vậy, UBND tỉnh đang chuẩn bị đề án bổ sung để đề nghị HĐND tỉnh tăng mức vốn vay ưu đãi, ưu tiên bố trí vốn cho chương trình để đạt được kế hoạch HĐND tỉnh đã thông qua tại kỳ họp thứ 7-HĐND tỉnh khoá IV. Khi được HĐND tỉnh chấp thuận và huy động được nguồn vốn vay, UBND tỉnh sẽ tăng mức vốn đầu tư để đẩy nhanh tiến độ kiên cố hoá giao thông nông thôn ở các địa phương 2. Cử tri huyện Triệu Phong đề nghị tỉnh đầu tư làm các con đường đi lên phía Tây của huyện để thúc đẩy phát triển kinh tế vùng gò đồi phía Tây. Phía Tây huyện Triệu Phong có tuyến Đường tỉnh ĐT.579 (đường Ái Tử-Trừ Lấu cũ ) từ thị trấn Ái Tử (Km765+400-Q/ộ la) đến xã Triệu Ái dài 6 Km; với quy mô nền đường rộng 6,5m, mặt đường rộng 3,5m bằng đất cấp phối. Hàng năm tỉnh đã bố trí vốn sự nghiệp kinh tế địa phương để quản lý và sửa chữa; tuy nhiên với nguồn vốn sự nghiệp kinh tế địa phương còn hạn hẹp nên chỉ làm công tác duy tu và sửa chữa nhỏ từng đoạn. Trong Quy hoạch phát triển GTVT tỉnh Quảng Trị đến năm 2020 được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số 2422/QĐ- UBND ngày 16/12/2008, để phát triển vùng gò đồi phía Tây huyện Triệu Phong và Cam Lộ, phát triển ĐT.579 thành tuyến kéo dài từ Thị trấn Ái Tử - Trừ Lấu- Phượng Hoàng- Cùa (ĐT.585), với chiều dài toàn tuyến 31Km. Giai đoạn 2011-2015 nâng cấp ĐT 579 dài 6km đạt tiêu chuẩn cấp IV nền rộng 7.5m, mặt đường rộng 6m bằng bê tông nhựa. Giai đoạn 2016 - 2020 kéo dài từ Km6 đến Cùa dài 25Km đạt tiêu chuẩn cấp V có nền rộng 6,5m, mặt đường láng nhựa rộng 3,5m và đưa lên đường tỉnh quản lý. Hiện nay, UBND tỉnh đang chỉ đạo Sở Giao thông vận tải tích cực tìm kiếm nguồn vốn để đầu tư nâng cấp sớm tuyến đường ĐT579 dài 6km. Sau đó theo từng giai đoạn và theo nguồn vốn đầu tư sẽ xây dựng 25km đường còn lại theo quy hoạch được phê duyệt. 3. Cử tri thị xã Quảng Trị kiến nghị tỉnh cần có kế hoạch nâng cấp, sửa chữa cầu kênh N2 nối Quốc lộ 1A và đường Nguyễn Trãi vì cầu đã xuống cấp nghiêm trọng rất dễ gây tai nạn giao thông. Cầu kênh N2 bắc qua kênh thuỷ lợi Nam Thạch Hãn tại Km0+020 đường Nguyễn Trãi nối Quốc lộ 1A với trung tâm thị xã Quảng Trị. Cầu kênh N2 do Sở NN&PTNT xây dựng và quản lý, trực tiếp là Công ty quản lý và khai thác thuỷ nông Nam Thạch Hãn từ trước năm 1980. Cầu dầm bê tông giản đơn có chiều dài toàn cầu: 9,2m, chiều rộng phần xe chạy: 4,0m, chiều rộng phần bộ hành (kể cả lan can): 1m, mặt đường hai đầu cầu rộng 5,5m. Đường Nguyễn Trãi có nền đường 9,5m, mặt đường láng nhựa 5,5m, vỉa hè mỗi bên 2m. Hiện tại cầu đang khai thác bình thường với tải trọng 10 tấn. Để phù hợp yêu cầu khai thác tuyến đường và mỹ quan đô thị thì việc đầu đầu tư xây dựng cầu mới là cần thiết. Tuy nhiên, do nguồn vốn chưa đáp ứng nêntrước mắt việc xây dựng lại cầu chưa thể thực hiện được, khi thu xếp được vốn UBND tỉnh sẽ chỉ đạo triển khai xây dựng cầu. 4. Cử tri huyện Hướng Hoá phản ánh chất lượng công trình GTNT không đảm bảo, nhiều công trình mới nghiệm thu đưa vào sử dụng trong thời gian ngắn đã xuống cấp trầm trọng. Các công trình GTNT tại địa phương được đầu tư theo nhiều nguồn vốn và có chủ đầu tư khác nhau; Các dự án thuộc Ban QLDA huyện quản lý yêu cầu UBND các huyện chỉ đạo tăng cường công tác giám sát chất lượng; Các dự án do các Ban QLDA tỉnh quản lý đầu tư trên địa bàn huyện, cần tăng cường công tác giám sát chất lượng và có giám sát cộng đồng. Để đảm bảo chất lượng công trình các Ban QLDA cần thực hiện nghiêm túc các Nghị định của Chính phủ về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình. Trong thời gian tới UBND tỉnh sẽ chỉ đạo ccác nhành và UBND huyện Hướng Hoá tiến hành kiểm tra, rà soát để có biện pháp khắc phục về mặt chất lượng công trình. Tuy nhiên, để có cơ sở giáp UBND tỉnh chỉ đạo cụ thể, đề nghị các cử tri cần phản ánh chất lượng công trình và chủ đầu tư có công trình kém chất lượng để cơ quan quản lý nhà nước liên quan có cơ sở xem xét chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tiến hành kiểm tra và xử lý. 5. Cử tri huyện Hải Lăng đề nghị tỉnh hỗ trợ vốn hoặc tìm dự án để nâng cấp nhiều tuyến đường thuộc huyện quản lý nhưng đã xuống cấp rất nghiêm trọng trong khi huyện không có kinh phí để nâng cấp, sửa chữa. Việc đầu tư nâng cấp, sửa chữa các tuyến đường huyện thuộc trách nhiệm UBND huyện Hải Lăng. Tuy nhiên, UBND tỉnh ghi nhận đề xuất này và sẽ cố gắng tìm kiếm nguồn vốn để hỗ trợ đầu tư dần theo mức độ ưu tiên. 6. Cử tri huyện Hải Lăng phản ánh: khối bê tông ngăn cách tại đường 8B và Quốc lộ lA ở thị trấn Hải Lăng rất bất hợp lý. Về vấn đề này, thuộc thẩm quyền của Khu quản lý đường bộ IV. Ngày 13/3/2009 Khu QLĐB IV đã có ý kiến trả lời nội dung kiến nghị này tại văn bản số 346/KĐB4-GT Đoạn Km 778+981- Km780+200 Quốc lộ 1A đi qua địa bàn thị trấn Hải Lăng, trước đây hay xảy ra tai nạn giao thông, do đó Khu QLĐB IV đã xin đầu tư mở rộng đoạn tuyến này và đã dược Cục Đường bộ Việt Nam phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi tại Quyết định số 88/QĐ-KHĐT ngày 28/01/2005, phê duyệt thiết kế kỹ thuật thi công và dự toán tại Quyết định số 136/QĐ-KTCL ngày 01/02/2005, với quy mô: nền đường rộng 19m, mặt đường rộng 16m (gồm 4 làn xe rộng 14,05m + dải phân cách trung tâm bằng BTCT M200 dài 900m và vạch sơn an toàn ở giữa rộng 1 ,7m + rãnh tam giác thu nước rộng 0,25m), lề đường bên trái rộng 2m có bố trí vỉa hè, lề đường bên phải giữ nguyên, hệ thống an toàn giao thông bố trí đầy đủ theo đúng Điều lệ báo hiệu đường bộ 22 TCN-237-01 của Bộ GTVT. Đơn vị tư vấn thiết kế đã tính toán tốc độ khai thác các ví trí giao cắt và vị trí mở dải phân cách giữa đường nhằm bảo đảm ATGT. Công trình hoàn thành đưa vào sử dụng tháng 10/2006 đã phát huy hiệu quả rõ rệt làm tăng khả năng lưu thông và giảm thiểu tai nạn giao thông. Tuy nhiên khi dự án nâng cấp, mở rộng đường 8B do UBND huyện huyện Hải Lăng làm chủ đầu tư. Đường 8B đấu nối vào Quốc lộ 1A tại Km 780+076 phía trái tuyến, tại ngã ba đấu nối Quốc lộ chưa hoàn chỉnh do vướng mắc giải phóng mặt bằng đã làm hạn chế đến giao thông, tạo một só điểm chưa hợp lý, UBND tỉnh sẽ tiếp tục đề nghị Khu Quản lý đương bọ IV phối hợp UBND huyện Hải Lăng tiến hành kiểm tra xem xét để có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp. 7. Cử tri huyện Gio Linh đề nghị đầu tư đường T100 dọc sông Bến Hải: Đường T100 là tuyến đường huyện, điểm đầu nối với Km3 ĐT 576 (thôn Kinh Thị), điểm cuối: Nghĩa trang Liệt sỹ Trường Sơn dài 7,7 Km; nền đường rộng 5m, mặt đường rộng 3,5m bằng đất cấp phối. Hiện tại đường vẫn khai thác bình thường. Trong Quy hoạch phát triển GTVT tỉnh Quảng Trị đến năm 2020, giai đoạn 2011 - 2015 đường T100 được đầu tư nâng cấp đạt tiêu chuẩn cấp IV nền 9m, mặt bằng BTN rộng 7m; nối thông với đường 76 Đông dài 7,2 Km thuộc dự án ADB5 đang xây dựng hoàn thành trong năm 2009. Việc đầu tư nâng cấp tuyến đường là rất cần thiết, tuy nhiên do ngân sách của tỉnh còn hạn chế, UBND tỉnh đã giao Sở GTVT đang tích cực tìm kiếm nguồn vốn để đầu tư và hiện nay đường T100 đã được UBND tỉnh, Sở KH&ĐT đăng ký vào danh mục đầu tư bằng nguồn vốn trái phiếu Chính phủ trong năm 2009 - 2010. Trên đây là báo cáo của UBND tỉnh về kết quả giải quyết và giải trình các ý kiến, kiến nghị của cử tri được nêu tại kỳ họp thứ 15 HĐND tỉnh khóa V. Đối với các ý kiến thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan thuộc UBND tỉnh và của các địa phương UBND tỉnh đã giao các cơ quan và địa phương tập trung giải quyết. UBND tỉnh trân trọng cảm ơn và nghiêm túc tiếp thu ý kiến của cử tri, của các vị đại biểu, các Ban của HĐND tỉnh, và ý kiến tham gia xây dựng chính quyền của Uy ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh để tăng cường hơn nữa công tác quản lý, điều hành phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh nhà./.