Ý Đảng - lòng dân nơi miền tây Hướng Hóa. Bài 5: “Huyện miền núi kiểu mẫu”, từ hiện thực đến khát vọng vươn tới
> Ý Đảng- lòng dân nơi miền tây Hướng Hóa. Bài 1: “Chuẩn hóa” và “trẻ hóa”, những cách làm hay trong công tác cán bộ của Đảng bộ huyện Hướng Hóa

Ý Đảng - lòng dân nơi miền tây Hướng Hóa. Bài 5: “Huyện miền núi kiểu mẫu”, từ hiện thực đến khát vọng vươn tới

> Ý Đảng- lòng dân nơi miền tây Hướng Hóa. Bài 1: “Chuẩn hóa” và “trẻ hóa”, những cách làm hay trong công tác cán bộ của Đảng bộ huyện Hướng Hóa

>> Ý Đảng- lòng dân nơi miền tây Hướng Hóa. Bài 2: Phòng chống tệ nạn ma túy ở Hướng Hóa, đảng viên đi trước

>>> Ý Đảng - lòng dân nơi miền tây Hướng Hóa. Bài 3: Tiên phong trong “cuộc chiến” chống đói nghèo

>>>> Ý Đảng - lòng dân nơi miền tây Hướng Hóa. Bài 4: Lặng thầm giữ đất biên cương

(QT) - Từ lời căn dặn của Tổng Bí thư Lê Duẩn trong dịp đồng chí về thăm huyện Hướng Hóa vào mùa xuân năm 1977: “Phải đổi mới phương thức sản xuất, đẩy mạnh sản xuất lương thực đảm bảo cho dân khỏi đói và đủ ăn, có lương thực rồi sẽ làm được nhiều việc khác, từ đó phấn đấu xây dựng Hướng Hóa thành một huyện miền núi kiểu mẫu”. 40 năm qua, lời căn dặn ấy đã trở thành “kim chỉ nam” trên con đường đổi mới, phát triển của địa phương.

Hai khâu đột phá

Thấm nhuần lời căn dặn của Tổng Bí thư Lê Duẩn, Đảng bộ, chính quyền huyện Hướng Hóa qua các thời kỳ đều xác định phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm và đã lựa chọn 2 khâu đột phá để phát triển, đó là xây dựng kết cấu hạ tầng và tăng thu nhập cho người dân. Là huyện miền núi biên giới, Hướng Hóa bắt tay vào công cuộc xây dựng quê hương từ hoang tàn đổ nát chiến tranh để lại cùng với đó là phương thức, tập quán canh tác của người dân mà trong đó có hơn 50% đồng bào dân tộc thiểu số vẫn chủ yếu là phát, đốt, cốt, trỉa nên đời sống rất nghèo nàn, lạc hậu…

Ông Hồ Vai trò chuyện cùng người dân tại Nhà sinh hoạt cộng đồng được xây dựng trên mảnh đất ông tự nguyện hiến tặng

Mặt bằng các xã trong huyện có sự chênh lệch đáng kể nhưng với những bước đi thích hợp, huyện Hướng Hóa đã tranh thủ tối đa các nguồn lực hỗ trợ để từng bước hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là ưu tiên xây dựng các công trình phúc lợi phục vụ dân sinh và sản xuất. Đến nay, huyện đã hoàn thành việc định canh, định cư cho 100% số thôn, bản. Cơ sở vật chất hạ tầng từ trung tâm huyện đến trung tâm các xã, thôn được quan tâm đầu tư xây dựng khang trang; đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao. Các phong trào thi đua phát triển kinh tế, làm ăn giỏi, xây dựng đời sống mới… được triển khai từ vùng thuận lợi đến vùng khó, thu hút đông đảo người dân tham gia.

Xác định giúp đồng bào thiểu số thoát nghèo không phải ngày một ngày hai nên nhiều chính sách đã được huyện Hướng Hóa đưa ra và áp dụng hiệu quả. Để kéo gần khoảng cách giữa đồng bào dân tộc thiểu số với vùng đồng bằng, các xã trên địa bàn huyện đã phát huy vai trò đoàn kết, giúp đỡ nhau trong xóa đói, giảm nghèo từ phát triển các cây trồng có lợi thế của địa phương như: cà phê, chuối, sắn, bời lời...

Theo đồng chí Hồ Văn Thuận, Chủ tịch UBND xã A Xing, xã có các dân tộc cùng sinh sống. Các hộ gia đình là dân tộc Kinh vốn rất nhạy bén, mạnh dạn trong chuyển đổi hướng phát triển kinh tế gia đình nên không chỉ làm giàu cho bản thân mà đây còn là động lực và là cơ sở để địa phương tuyên truyền cho bà con học hỏi, thay đổi tư duy trong sản xuất nông, lâm nghiệp và chăn nuôi. Chẳng hạn như trước đây người dân bản địa trồng sắn bằng cách chọc lỗ rồi đặt hom giống xuống đất nên năng suất rất thấp, không đủ làm lương thực cho gia đình nhưng khi người Kinh lên sinh sống, bà con đã học được cách làm đất, trồng, chăm sóc sắn để trở thành sản phẩm hàng hóa bán cho nhà máy, cải thiện cuộc sống gia đình.

Toàn xã hiện có gần 400 ha sắn, sản lượng gần 3.200 tấn. Bây giờ địa phương đã có nhiều nông dân là đồng bào dân tộc thiểu số có tên trong danh sách Câu lạc bộ 100 triệu đồng của những người trồng sắn huyện Hướng Hóa. Dọc tuyến đường Lìa (vùng khó khăn nhất của huyện Hướng Hóa trước đây), những nóc nhà sàn truyền thống bằng gỗ khang trang hoặc được đồng bào cải tiến thay trụ gỗ bằng trụ bê tông, mái lợp ngói vững chắc mọc lên san sát hai bên tuyến đường nhựa phẳng lì nối liền 7 xã từ ngã ba Tân Long vào đến xã Ba Tầng.

Thêm nữa, cách làm ăn, trình độ dân trí và đời sống của dân bản ngày càng được nâng lên, người dân không còn cảnh thiếu đói quanh năm như trước đây, con em trong độ tuổi đi học đều được đến trường. Có thể nói, thông qua nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, huyện Hướng Hóa đã khơi dậy và khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế, quyết tâm đưa địa phương ngày càng phát triển toàn diện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt trên 8,45%. Đặc biệt, sản xuất nông nghiệp từ phương thức canh tác lạc hậu đã chuyển sang áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, chuyển đổi cây trồng, vật nuôi cho năng suất và giá trị cao.

Những năm gần đây, Hướng Hóa đã khai thác hiệu quả lợi thế nằm trên trục Hành lang kinh tế Đông - Tây, tuyến đường 9 là huyết mạch giao thông nối liền với các nước trong khu vực để vừa phát triển tiềm năng du lịch, thương mại, dịch vụ vừa phát triển các vùng cây công nghiệp có giá trị kinh tế. Năm 2016 tổng giá trị sản xuất toàn huyện đạt 10.647 tỉ đồng, điều này cho thấy sự chuyển biến mạnh mẽ, bứt phá vươn lên của một huyện miền núi từ xuất phát điểm thấp.

Xây dựng nông thôn mới từ lòng dân

Từ những chủ trương, chính sách của Đảng bộ huyện Hướng Hóa trong phát triển kinh tế - xã hội đã khai thác tối đa thế mạnh của địa phương lại phù hợp nguyện vọng của nhân dân các đồng bào dân tộc trên địa bàn. Đặc biệt, trong công cuộc xây dựng nông thôn mới (NTM), năm 2013 Huyện ủy Hướng Hóa ban hành Nghị quyết 05-NQ/HU về lãnh đạo xây dựng NTM đến năm 2020 qua đó phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, sự quản lý của các cấp chính quyền, công tác tuyên truyền, vận động của Mặt trận và các đoàn thể từ huyện đến cơ sở đối với công cuộc xây dựng NTM.

Một góc xã Tân Long, Hướng Hóa

Từ đó cán bộ, đảng viên ở đây đã thể hiện rõ vai trò, trách nhiệm của mình, gương mẫu trong mọi hoạt động của địa phương đồng thời phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân. Đến xã Tân Long tìm hiểu cách “cán đích” NTM của một xã vùng biên, chúng tôi được đồng chí Võ Tấn Lộc, Bí thư Đảng ủy xã Tân Long thông tin những kết quả nổi bật của địa phương: “Xã Tân Long hiện có các loại cây trồng chủ lực như: chuối, thanh long, gừng, nghệ... trong đó, cây chuối những năm trước đây mang về doanh thu cho địa phương trên 82 tỉ đồng/năm.

Xã có 42 trang trại, gia trại trong đó có 3 trang trại chăn nuôi lớn. Bên cạnh phát triển nông nghiệp, lĩnh vực thương mại dịch vụ ngày càng phát triển nhờ người dân khai thác hiệu quả tuyến Quốc lộ 9 đi qua địa bàn. Doanh thu từ lĩnh vực thương mại của địa phương đạt 24,4 tỉ đồng/năm. Thu nhập bình quân đầu người toàn xã năm 2016 đạt 27,4 triệu đồng/người. Từ khi triển khai chương trình xây dựng NTM đến nay xã Tân Long đã có hơn 300 hộ dân tự nguyện hiến trên 8.500m2 đất và hàng trăm ngày công để giải phóng mặt bằng đầu tư mở các tuyến đường liên thôn, nội thôn, liên xã.

Ngoài ra, nhân dân trong xã cũng đã tự đóng góp lắp đặt gần 3 km đường dây điện thắp sáng đường quê”. Minh chứng cho lời mình nói, đồng chí Bí thư Đảng ủy xã Tân Long dẫn chúng tôi đến gặp ông Hồ Vai (tên thường gọi Ăm Rạp), Bí thư Chi bộ thôn Làng Vây. Đây là thôn 100% đồng bào dân tộc thiểu số nhưng là đơn vị dẫn đầu các phong trào hoạt động ở xã Tân Long. Trong trí nhớ của ông Hồ Vai vẫn còn đó những tháng ngày gian khó. Ngày trước, do trình độ dân trí còn thấp, phần lớn người dân bản Làng Vây vẫn giữ những hủ tục như sinh nhiều con, đau ốm không chịu đến trạm y tế, trẻ em sinh ra không biết trường lớp là gì…

Nhưng đó là những câu chuyện của quá khứ, còn đối với dân bản Làng Vây bây giờ, “Nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và địa phương, nhiều chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc phát triển sản xuất có hiệu quả góp phần vào sự đổi thay nhanh chóng của bản làng hôm nay. Dân bản đã biết xây dựng các mô hình trồng trọt, chăn nuôi mang lại thu nhập như trồng chuối, trồng sắn, nuôi lợn, nuôi dê... Mấy năm nay, đường vào bản đã được đổ bê tông. Nước sinh hoạt được dẫn từ núi về tận bản. 100% trẻ em trong độ tuổi đều đến trường. Người dân khi ốm đau đã biết đến trạm y tế chăm sóc sức khỏe. Bản lại có nhà sinh hoạt cộng đồng để dân bản tổ họp hành, lễ hội”, Hồ Vai tâm sự.

Sự thay đổi của làng bản hôm nay có sự đóng góp không nhỏ của ông và bà con dân bản. Bản thân ông đã tự nguyện hiến 400m2 đất trong khuôn viên vườn tược của gia đình để xây dựng Nhà sinh hoạt cộng đồng thôn. Ông Hồ Vai giải thích “Lúc đầu bà con cứ nghĩ xây dựng NTM là một dự án, nhân dân chỉ việc hưởng lợi chứ không cần đóng góp. Cho nên, việc đầu tiên phải làm là tuyên truyền cho bà con hiểu. Miềng gương mẫu làm trước, bà con hiểu rồi thì hăng hái tham gia, rất nhiều gia đình khó khăn nhưng vẫn viết đơn xin hiến đất như các hộ Y Kế, Ăm Dũng... đã hiến hàng trăm mét vuông đất để nhà nước xây dựng trường mầm non cho con cháu học cái chữ...”.

Mỗi địa phương có một cách làm riêng để hoàn thiện các tiêu chí NTM nhưng đến Hướng Hóa, chúng tôi cảm nhận được mẫu số chung đó là các xã đã triển khai thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM theo đúng tinh thần vì nhân dân, từ đó phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên trong cộng đồng dân cư. Điển hình như Đảng bộ xã Tân Hợp, cấp ủy đã phân công đảng viên phụ trách những hộ dân ở khu vực mình sinh sống, phát huy vai trò đảng viên gắn bó với nhân dân nơi cư trú.

Đầu tiên là vận động, tuyên truyền người dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, sau đó là nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân xem họ cần gì, muốn gì... Có như vậy cán bộ, đảng viên mới sâu sát được quần chúng, hiểu được quần chúng. Cán bộ, đảng viên ở đây đã thể hiện rõ trách nhiệm của mình, gương mẫu trong mọi hoạt động của địa phương và người dân đã phát huy tinh thần làm chủ, không chỉ đóng góp tiền của và công sức xây dựng cơ sở hạ tầng mà còn chủ động khai thác lợi thế của địa phương để phát triển kinh tế. Nhờ vậy, thu nhập bình quân đầu người năm 2016 đạt 30 triệu đồng, hộ khá, giàu trên 60% dân số xã, tỷ lệ hộ nghèo 4,29%.

Xã Tân Hợp được công nhận xã đạt chuẩn NTM vào tháng 8/ 2015. Cũng có những xã nằm ở vùng biên giới khi triển khai xây dựng chương trình xây dựng NTM gặp không ít khó khăn nhưng vẫn từng bước hoàn thành các tiêu chí bằng cách huy động sức mạnh tổng hợp, phát huy tinh thần đoàn kết, nội lực từ sức dân trong việc thực hiện các tiêu chí xây dựng NTM. Chẳng hạn như ở xã A Dơi, bây giờ đường vào xã trải nhựa rộng rãi, 2 bên đường là những ngôi nhà sàn kiên cố của đồng bào Vân Kiều xen kẽ với nhà xây mái ngói của người Kinh, trụ sở xã, trường học, trạm xá được xây dựng khang trang.

Những năm qua, huyện Hướng Hóa đã huy động trên 1.800 tỉ đồng thực hiện xây dựng NTM, vận động nhân dân trên địa bàn hiến trên 20.000m2 đất, hàng ngàn ngày công lao động để mở rộng, nâng cấp xây mới đường giao thông, thủy lợi, nước sạch, trường học, trạm xá, nhà văn hóa cộng đồng... Từ một huyện miền núi khó khăn, 2 năm đầu triển khai thực hiện chương trình NTM khi Huyện ủy chưa ban hành Nghị quyết 05 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong xây dựng NTM, huyện Hướng Hóa có 2/20 xã đạt 8 tiêu chí, 8/20 xã đạt từ 5 - 7 tiêu chí và 10/20 xã dưới 5 tiêu chí.

Qua 5 năm thực hiện Nghị quyết 05, đến nay Hướng Hóa đã có 3 xã đạt chuẩn NTM (gồm các xã: Tân Hợp, Tân Long, Tân Liên), 7 xã đạt từ 10-18 tiêu chí, 10 xã đạt từ 6 - 9 tiêu chí, không còn xã dưới 6 tiêu chí. Có thể nói chính sự đồng lòng, đồng sức của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận, hội, đoàn thể và nhân dân nên quá trình xây dựng NTM ở Hướng Hóa ngày một tiến nhanh. Những mái nhà tranh tre nứa lá nay đã được thay thế bằng mái tôn, ngói đỏ tươi.

Những bản làng nơi thăm thẳm rừng sâu nay xích lại gần nhau hơn nhờ những tuyến đường giao thông huyết mạch được đầu tư xây dựng. Bà con dân bản từ thiếu cái ăn, triền miên với sốt rét rừng, đói con chữ nay đã có những gia đình trở thành điển hình nông dân sản xuất và làm kinh tế giỏi, những gia đình văn hóa, gia đình hiếu học... Sức sống những bản làng NTM đang hiện hữu trên con đường tiến đến huyện miền núi kiểu mẫu chưa bao giờ gần đến thế.

Lâm Thanh