Bút ký
Trên đường thiên lý Bắc - Nam suốt dài Quốc lộ 1 A, ngang qua thị xã Quảng Trị, xin bạn hãy rẽ về phía Bắc 2 km đến viếng thăm Thành Cổ. Thành Cổ - một thời mưa bom bão đạn, một thời lửa – thép. Bạn đừng quên thắp nén hương tưởng nhớ những người đã ngã xuống, hoá thành trời xanh mây trắng vì cuộc sống bình yên hôm nay. Bạn sẽ chìm sâu vào không gian linh thiêng siêu thực, tưởng như khói hương bay, tiếng bom đạn ầm oàng hỗn loạn và máu chảy của một thời hoa lửa hiển hiện vừa mới hôm qua.
Bạn có bao giờ tự hỏi: Cái Thành Cổ - Quảng Trị chưa đầy 2 cây số vuông và khu vực xung quanh có giá trị gì về quân sự để đến nỗi phải chịu cảnh hoang tàn đổ nát, máu đổ xương tan do bom đạn Mỹ - Ngụy tàn phá sức hủy diệt ngang với 7 quả bom nguyên tử ném xuống Hi rô si ma - Nhật Bản? 81 ngày đêm bộ đội, du kích chống lại cuộc tái chiếm Thành Cổ của các lực lượng Thuỷ quân lục chiến, Biệt động quân, Lính Dù... thuộc Tổng trừ bị của Ngụy, mỗi ngày hy sinh 1 đại đội, cũng có nghĩa là khoảng 1 vạn chiến sĩ hy sinh trong thời gian này. Rất có thể nhiều hơn nữa, hoặc ít nhất cũng bằng ấy người lính phía bên kia chết trận. Dứt khoát phải có nguyên cớ nào đấy!?
Tôi đi tìm đọc những gì liên quan đến Thành Cổ.
Dư địa chí Quảng Trị ghi rằng: Năm 1809, vua Gia Long cho di chuyển thành Quảng Trị từ Tiền Kiên (Triệu Thành - Triệu Phong) về làng Thạch Hãn, huyện Hải Lăng (thị xã Quảng Trị ngày nay). Lúc đầu thành được đắp bằng đất. Năm 1827 thành được xây bằng gạch nằm trên địa phận hai làng Cổ Vưu và Thạch Hãn...
Người xưa ở Phú Xuân, thật là có con mắt tinh tường, nhìn xa trông rộng lo xây dựng dinh luỹ phòng thủ quân sự ở phía phía bắc kinh thành Huế. Tôi đã từng bồn chồn nhìn hình sông thế đất nơi Thành Cổ, phía tây là sông Thạch Hãn, phía bắc là sông Vĩnh Định, phía đông và nam là nông dân và đồng bằng Triệu Phong - Hải Lăng.
Lịch sử chọn Thành Cổ làm nơi đối đầu lịch sử hẳn là có lý do? Ra khỏi cuộc chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh triền miên, lại bị cuốn vào vòng binh đao nước lửa bao nhiêu năm dưới thời Tây Sơn; khi giành lại chính quyền, triều đình Huế đánh giá cao vị trí chiến lược Quảng Trị là tiền đồn bảo vệ kinh đô, nên dùng làm dinh trực lệ kinh sư. Thời Mỹ - Ngụy, Thành Cổ là tỉnh lị của Quảng Trị, tỉnh giới tuyến vùng chiến thuật 1, đối đầu với miền Bắc. Tái chiếm Thành Cổ thực ra là tái chiếm Quảng Trị, Mỹ - Ngụy sẽ chiếm lại được mảnh đất chiến lược địa đầu miền Nam và gây sức ép ngoại giao, chính trị với ta tại Hội Nghị Pa ri. Trước ngày 28 tháng 6 năm 1972, Thành Cổ gần như còn nguyên vẹn. Nhưng sau 81 ngày đêm bom đạn, Thành Cổ bị san phẳng thành bình địa... Trước lúc đến Quảng Trị, tôi chỉ biết Thành Cổ với vài ba chi tiết sơ sài như thế.
Thành Cổ Quảng Trị hôm nay - Ảnh: TL Tháng 4 năm 2005, tôi có một may mắn được đi trong cuộc hành quân xuyên Việt của 1000 cựu chiến binh trở lại các chiến trường xưa: Hàm Rồng – Sông Mã, Ngã Ba Đồng Lộc, Phà Xuân Sơn, Đà Nẵng, Huế, Phan Rang, Xuân Lộc... Điểm đến cuối cùng là dinh Độc Lập (nay là dinh Thống Nhất) đúng trưa ngày 30-4. Chúng tôi dừng lại Quảng Trị trong nắng nóng, cằn khô, nhưng ấm áp tình người và có một đêm Thành Cổ nhớ đời.
Đêm ấy, bầu trời đêm cao thẳm, được kéo vút lên, mở rộng bao la hơn các ngày thường. 3000 ngọn nến cháy lung linh dọc hai bên các con đường to, nhỏ trong Thành Cổ. Hàng trăm nữ sinh trung học, cao đẳng sư phạm mặc áo dài trắng thanh khiết, dịu dàng; mỗi em một bật lửa, chỉ làm một công việc rất bình thường mà linh thiêng là... thắp nến. Cứ ngọn nến nào tắt là... thắp.
Đêm Thành Cổ bí ẩn, lung linh huyền ảo, tôi có cảm giác như sao trên trời cao sa hết xuống nơi đây. Không còn cái Thành Cổ ngày xưa rêu phong, cũ kỹ rộng 18, 56 ha, chu vi 2 160 m, thành cao hơn 4 m, chân thành dày 13,5m, đỉnh mặt thành rộng 0,72m... ; bốn góc có 4 pháo đài lớn, có 4 cửa: tiền, hậu, tả, hữu... ; các cổng xây theo kỹ thuật cuốn vòm; tầng trên là vọng lâu, mái cong lợp ngói âm dương... Tất cả đã bị bom đạn san thành bình địa, chỉ còn sót lại cổng thành phía Tây và vài đoạn tường cũ lưu giữ bụi thời gian, cỏ cây mọc um tùm. Không còn chiến hào lở loét tan hoang, tường thành là các đống gạch vỡ vụn, ám khói đen và nhuốm máu người. Cũng chẳng còn thấy đâu là dấu vết xưa của những: dinh tuần vũ, dinh lãnh binh, dinh án sát, ty phiện, thuế đoan, trại lính... là cơ quan làm việc của tỉnh dưới thời Nguyễn. Hiện tại, đi trong Thành Cổ, như dạo bước trong công viên xanh. Xanh vô cùng! Cỏ non, mềm mát rượi hai bàn chân trần. Cỏ mọc đua nhau trỗi dậy, căng đầy sức sống, cứ như máu thịt người tan vào đất làm cỏ cây tươi tốt.
Đêm ấy, sao lưa thưa, bên ngoài cây cối lặng phắc như tờ, nhưng trong Thành Cổ gió quẩn mạnh, nến tắt rất nhiều; hẳn rằng các nữ sinh không nhớ và cũng chẳng cần nhớ một buổi tối các em đã bao nhiêu lần thắp nến? Hình như các linh hồn liệt sĩ hiện lên gặp gỡ đồng đội từ mọi miền đất nước trở lại chiến trường xưa. Âm khí ngùn ngụt bốc lên sinh ra gió. Họ đi lại quần quật, họ chạy tới chạy lui, họ đón nhau mà sinh ra gió. Gío thổi mạnh - cái gió Lào khô khát cuối tháng Tư thổi đến đây và về đêm thì dịu lại, cảm giác khi đến nơi này thì lòng người tĩnh lặng.
Dưới chân tượng đài Thành Cổ, những người lính cựu trở lại chiến trường xưa ngập tràn cảm xúc trận mạc trong đêm giao lưu Ký ức Thành Cổ, Quảng Trị với nhân dân. Không khí chiến trường một thuở. Các bài hát hào tráng, những con người xưa, đất đá, tường thành gạch vỡ cũng xưa; chỉ có cỏ non xanh, cây tươi tốt, các thiết bị âm thanh, ánh sáng... và thế hệ sinh sau năm 1975 là của hôm nay.
Tôi cởi giày, tháo tất, nhẩn nha bước trên thảm cỏ non xanh, đi xa nơi ánh đèn cao áp, đèn màu; xa nơi cuộc giao lưu ấm áp chân tình đang được âm thanh khuếch đại lên. Tôi ngồi lặng một mình dưới tán lá cây bóng rợp đen thẫm. Không hình dung được, ngay chỗ tôi ngồi trước khi xảy ra cuộc tương tàn lịch sử “81 ngày đêm Thành Cổ”, là hầm ngầm, trại lính, nhà lao Quảng Trị? hay dinh lãnh binh thời Nguyễn? Tôi tưởng tượng, cảnh đổ nát hoang tàn, khói bom, lửa đạn, súng bắn loạn xạ, tiếng kêu cứu, tiếng đạn bắn gần chát chúa, tiếng bom nổ ù tai, nhức óc; các chiến sĩ quân giải phóng và những người lính phía bên kia đang giành giật nhau từng mảng tường nham nhở, đống gạch vỡ vụn, góc chiến hào nông choèn sạt lở.
Rồi im bặt. Lặng thinh. Như khoảng lặng giữa hai trận đánh dồn đến thời điểm quyết chiến sinh tử. Và thật bất ngờ, tôi bỗng nghe được những tiếng thì thầm, thì thào ở quanh. Tôi nghe tiếng bước chân nặng đế giầy, thấy rất nhiều bóng đen lạ ở quanh mình, nhưng tôi vẫn nhận ra sắc phục tô châu. Họ ngồi, súng AK tựa vai, mặt hướng về phía tượng đài Thành Cổ đang rực rỡ ánh đèn, sôi động những bài hát một thời máu lửa, y hệt bộ đội ngồi xem chiếu phim, xem văn công trên bãi cỏ mà chúng ta đã từng thấy thời trước ở Binh trạm Trường Sơn. Tôi cũng nhận ra những sắc phục áo rằn ri, súng R15 tựa vai, ngồi phệt, ngồi gếch chân lên các bờ tường chiến ào sạt lở đất lỗ chỗ đạn ghim. Lại có nhiều người ngồi trên các cành cây, buông thõng hai chân, sắc phục bên ta và cả sắc phục rằn ri phía bên kia lờ mờ trong ánh đèn đêm nhập nhoạng. Họ cũng hướng về phía tượng đài Thành Cổ. Và thỉnh thoảng họ nói chuyện riêng, thì thào như thể chê bai một giọng hát phô, chưa vỡ, như thể trầm trồ tán thưởng một giọng hát đẹp nào đó...
Tôi đã kể lại chuyện tôi nhìn thấy những người lính giải phóng, những người lính dù hiện về dự, về xem Đêm giao lưu Ký ức Thành Cổ - Quảng Trị, nhưng chẳng ai tin tôi.
Nhưng có điều này là có thật: Giữa lúc đất trời giao hoà là một, giữa lúc linh thiêng nơi Thành Cổ, có một chị tầm tuổi 50 thanh mảnh, mặt héo rầu rầu, bỗng nhiên kêu thảng thốt: “ới các anh ơi! Tôi là tiểu đội trưởng trinh sát, người Hà Nội đây, cho tôi về Bắc với.” Chị khóc, giọng trầm khàn, da diết, thương cảm, hệt như huyền thoại tiếng kêu ai oán của Tuệ Tĩnh trước lúc gửi tấm thân tàn nơi phương Bắc xa xôi còn nhắn gửi trên bia mộ: “Có ai về Nam cho tôi theo với”. Chị khóc, chị co giật như người “lên đồng”. Chị bảo rằng, chị biết nơi có mộ liệt sĩ, và sẽ dẫn đường đi tìm đồng đội chị. Có một điều gì đó rất linh thiêng, loa phóng thanh chen ngang cuộc giao lưu, thông báo mời các phóng viên về bên trái sân khấu; chúng ta vừa phát hiện thêm một nơi có hài cốt liệt sĩ... Chúng tôi đến, khi mọi người đang dìu chị lên xe ôtô và cũng không ai nghĩ ra việc hỏi tên chị, quê quán ở đâu, làm nghề gì? Trong khi đại tá Nguyễn Huy Toàn – cố vấn lịch sử Đoàn hành quân xuyên Việt hỏi chuyện chị vừa nắm thông tin vừa chùng trình kéo dài thời gian đợi thêm các phóng viên nữa thì chị lại co giật, kêu ầm lên: “ới các anh ơi! Đi thôi! Không chờ được nữa, chúng tôi nằm ở Quảng Trị lâu quá rồi. Cho tôi về Bắc với.”
Xe chở cánh phóng viên cùng người phụ nữ theo sự chỉ dẫn của chị. Vòng vèo, ngoắt ngoéo, dò dẫm; cuối cùng chúng tôi dừng lại cổng một nhà dân ở Khu phố 4A, Phường 2, thị xã Quảng Trị. Rất nhiều người đứng ngồi lố nhố, bóng đổ chập chờn dưới ánh đèn đỏ mờ sương khói liêu trai. Người dân đang vây quanh hai hố đã đào sâu gần 2 m ở trong sân và ngoài cổng. Chúng tôi còn chưa thoát khỏi sự băn khoăn, ngỡ ngàng thì người phụ nữ nhảy phắt xuống xe, chị nhào xuống dưới hố sâu, chị khóc và gọi: “Đi về, đi về Bắc. Anh em ơi! Dậy đi cho kịp tàu...”
Rẽ đám đông người đang ngậm ngùi, thành kính, chúng tôi đi vào sân. Những người dân lành đang việc nghĩa, rửa, gói... Trời đất ơi! Những mảnh hài cốt không vẹn nguyên, 2 quả đạn cối, 2 quả B40, 1 cuốc chim, hai bao đạn, những viên đạn AK 47... Tất cả đã rỉ sét hoen vàng. 1 chiếc dép đúc cao su Trung Quốc đã cũ nát...
Lúc này, người phụ nữ “lên đồng” đã rời khỏi hố khai quật, chị đạp chân trần, suông trong vườn:
- Chỗ này còn một bộ hài cốt, chỗ kia còn hai bộ hài cốt, chỗ này nữa 4 bộ hài cốt...
Chị chỉ các nơi trong vườn cây, có tới 11 bộ hài cốt, nhưng mới khai quật được ba bộ hài cốt. Có ai đó, dọi đèn pin vào người phụ nữ. Và mọi người dân ở đây đều nhận ra chị. Chị tên là Cam, làm nghề bán bún ở ngõ 36, khu phố 4, phường 1, thị xã Quảng Trị, nhà chị cách chỗ chúng tôi đứng bên hai hố khai quật hơn 3 km. Nhưng làm sao chị rành rẽ nơi có hài cốt liệt sĩ? Không ai hiểu, chỉ biết rằng, cách đó vài ngày (đúng ngày Đoàn cựu chiến binh hành quân xuyên Việt xuất phát), chị đến nhà ông Ban trả tiền mua thịt; đột nhiên chị lên cơn co giật, tóc tai rũ rượi, chị chỉ các vị trí có hài cốt liệt sĩ: chỗ vườn cây, chỗ ngay cổng vào... Đã thế thì đào! Người dân thị xã Quảng Trị đã từng đào được nhiều hài cốt trong các trường hợp mộng du, linh cảm hoặc tương tự như thế. Nhưng đào thì không thấy gì. Chị bảo: “Cứ đào đi, và thắp hương khấn vái, chờ khi các đồng đội tôi từ Bắc rùng rùng kéo đại quân đi vào thì chúng tôi lên gặp...”
Không ai tin, tin làm sao được chuyện lạ kỳ như thế. Nhưng có một sự trùng hợp đến kinh ngạc, đúng lúc Đoàn cựu chiến binh hành quân xuyên Việt vào trong Thành Cổ thì những người đào hố khai quật cũng tìm thấy hài cốt đồng đội chúng ta. Hay các liệt sĩ bao nhiêu năm nằm trong lòng đất, nay mới gặp lại đồng đội, mừng quá hiển linh hiển xác?
Lại có điều ly kì hơn: Khi đại tá, cố vấn lịch sử Nguyễn Huy Toàn đưa chị Cam vào trong nhà ông Ban ngồi nghỉ thì lại có một chị nữa kêu khóc, co giật như “lên đồng”: “Còn em nữa. ới các anh ơi! Đừng quên em, em nằm đây hơn ba mươi năm rồi, cho em về Bắc với...” Chị chỉ mấy vị trí có hài cốt liệt sĩ. Xẻng, cuốc, mai... được huy động ra và những dân thành kính đào hố khai quật ngay trong đêm. Cũng lại những mảnh hài cốt không vẹn nguyên, dây lưng, bi đông Trung Quốc, CKC đã dương lê rỉ ngoèn,...
Người phụ nữ thứ hai kia tên là Hợi, ở ngay tại khu phố 4 này. Sao chị biết những nơi liệt sĩ đã âm thầm nằm ở đó bao nhiêu năm? Và nếu như chị biết, tại sao đến khi Thành Cổ ngập tràn 600 cựu chiến binh trở lại chiến trường xưa thì chị mới chỉ nơi liệt sĩ nằm?
Chúng ta khẳng định: không nên nhìn hiện tượng này dưới góc độ mê tín. Nhưng linh cảm hay tâm linh? Không thể cắt nghĩa, chỉ biết rằng: Cuộc khai quật trước đó và cuộc khai quật nữa được thực hiện ngay trong đêm trong sự chứng kiến của rất nhiều người và các phóng viên, các bộ hài cốt bao nhiêu năm trường nằm trong đất lạnh dần dần được hiện ra cùng với quân trang, vũ khí người lính được trang bị vào Nam đánh giặc. Không phải anh em đồng chí mình nằm ở đó thì ai? Chẳng phải tình cờ, ngẫu nhiên mà người phụ nữ tự nhận mình “tôi là tiểu đội trưởng trinh sát, người Hà Nội, cho tôi về Bắc với”. Chị ở một nơi khác, chưa hề đặt chân đến khu vườn ấy? Sự việc xảy ra trùng với các sự kiện đêm thiêng Thành Cổ. Chẳng thể nào cắt nghĩa được, phải chờ đến khi nào khoa học vén được làn sương mù tâm linh thì những điều ấy sẽ lộ sáng.
Câu chuyện trên không phải là hi hữu. Chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ hơn ba mươi năm rồi, nhưng ở thị xã Quảng Trị vẫn còn nhiều người lính quân giải phóng vẫn chưa tìm được hài cốt đưa vào nghĩa trang. Thỉnh thoảng, đây đó, người ta đào móng xây nhà, đào giếng nước ăn, san lấp đất làm đường... lại thấy một, vài, ba bộ hài cốt của bộ đội mình và cả phía bên kia. Những ngày đào móng xây Nhà bảo tàng, trên diện tích 600 m2, người ta đã thấy hơn 200 bộ hài cốt bộ đội đằng mình và cả hài cốt những người lính không cùng sắc phục. 81 ngày đêm Thành Cổ kết thúc, địch đã dùng xe ủi san phẳng gạch đá, vôi vữa... Bao nhiêu liệt sĩ và những người lính phía bên kia trong hầm ngầm, công sự, chiến hào... bị lấp.
Người ta đã có một thống kê tương đối: 81 ngày đêm chiến đấu khốc liệt, mỗi ngày có khoảng 1 đại đội quân ta hi sinh; có nghĩa là khoảng 1 vạn chiến sĩ đã anh dũng hi sinh trên mảnh đất chật hẹp này. Tất nhiên, cũng chừng ấy người lính phía bên kia chết trận. Nếu các anh còn sống, tập trung lại, 2 vạn người sẽ đứng chật ních sân vận động quốc gia Mỹ Đình. Ta cũng sẽ hình dung bằng ấy người mẹ khóc hết nước mắt và bạc tóc vì mất con, bằng ấy người phụ nữ thừa ra, cô quả. Họ là những người vợ mòn mỏi chờ đợi rồi đau đớn nỗi cô đơn góa chồng, là những người gái trẻ mất người yêu... Viết đoạn văn này, tôi chỉ muốn nói rằng: Chiến tranh là vô cùng khốc liệt. Chúng ta cầu mong đừng bao giờ xảy ra chiến tranh để đất nước thanh bình.
*
* *
Có một đêm thiêng Thành Cổ nữa.
Ấy là đêm chúng tôi ngồi ở bờ Nam sông Thạch Hãn. Lúc ấy, quãng 9 giờ tối, ngay trên mặt đê đã được lát gạch, anh Nguyễn Trí Tuân - Phó chủ tịch thị xã Quảng Trị cùng ngồi uống cafê với tôi và các nhà văn: Cao Hạnh; Văn Bốn; Hà Nguyên Huyến. Dòng sông Thạch Hãn đương mùa cạn một màu trắng đục, im lìm. Phía bên kia – bờ bắc, làng Nhan Biều mờ mịt dưới trăng suông. Phía bên này – bờ Nam chỉ cách Thành Cổ 500 m cũng mịt mờ dưới ánh đèn đường đỏ quạch và trăng đầu tháng nhạt màu. Hơi nước bốc lên từng đám bay lãng đãng như sương mù tháng chạp.
Đò xuôi Thạch Hãn, ơi chèo nhẹ!
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm
Có tuổi đôi mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm.
Nhà thơ Lê Bá Dương đã viết những câu thơ nao lòng như thế. Nhưng đêm nay không có ai chèo thuyền, dù là chèo thuyền thả hoa trên sông Thach Hãn. Tất cả đều im ắng đến lạ lùng. Dường như đất trời tĩnh lặng để giấc ngủ các anh bình yên.
Bất chợt tôi nhìn thấy những bóng người mặc áo tô châu, đội mũ sắt, mũ tai bèo, đang ngồi trên thuyền gỗ, thuyền cao su, bè nứa bè luồng chèo gấp gáp sang sông như đang chui xuyên trong sương giăng mù mịt trên mặt nước. Im lặng. Không nghe tiếng mái chèo khua nước. Thấp thoáng. Xa gần. Ẩn hiện...
Tôi cố vượt ra khỏi sự ám thị. Tôi trấn tĩnh lại rồi hỏi:
- Các anh có nhìn thấy bộ đội mình đang chèo thuyền sang sông không?
- Làm gì có? Chú Minh đang mơ à? – Nhà văn Cao Hạnh đập vai tôi hỏi lại.
- Không! Rõ ràng là em thấy bộ đội mình mặc áo Tô châu. Nhìn rõ súng AK, B40, súng bắn tỉa Tiệp Khắc...
Tất cả mọi người đều cười. Họ không tin điều tôi vừa nói. Nhà văn Cao Hạnh bảo:
- Bên cạnh chúng ta đang ngồi đây là bến nước mới xây có nhiều bậc xuống sông; chỗ này chính là nơi thuyền, bè tập kết cho bộ đội lên bờ vào Thành Cổ và lấy thương binh từ trong thành ra.
Rồi nhà văn Cao Hạnh kể: Thời loạn lạc. Bom rơi trúng sân nhà anh thợ rèn đầu làng. Cái nhà ngói bay mất. Ba bố con anh lẫn vào lòng đất, lẫn vào gạch đá. Người dân làng... đi nhặt nhạnh từ mẩu thịt, đốt xương, mảng da dính tóc... vung vãi khắp nơi, gom chưa đầy cái cái gầu múc nước giếng rồi đem chôn. Mấy ngày sau, thấy quạ đen bay rợp trời, kêu quà... quà... nhức óc và mùi hôi thối không chịu được. Hoá ra, có đoạn ruột người (không biết là của cha hay của con anh thợ rèn) lòng thòng trên ngọn tre tơ tướp xác xơ... Cái ám ảnh đó là sự khốc liệt, tang thương và đau lòng. Ở Thành Cổ mức độ dữ dội hơn nhiều. Có người lính hai lần bị thương; có nghĩa là bị đạn, bom mới băng bó chưa kịp đưa ra tuyến sau thì lại bị thương lần nữa. Lại có người hai lần hy sinh. Có nghĩa là, chưa kịp đưa thi thể qua sông Thạch Hãn thì bị... bom. Đồng đội của chúng ta mất xác.
Anh Tuân – Phó chủ tịch thị xã chỉ lên những vòm cây xanh đang mờ ảo dưới ánh điện:
- Anh Minh có biết không, ở Thành Cổ, mỗi ngọn cỏ, cành cây, hạt cát, đều mang trên mình máu thịt các anh hùng liệt sĩ.
Nhà văn Văn Bốn cũng một lòng đồng cảm:
- Khu vực Thành Cổ linh thiêng lắm, tôi đã nhiều năm ở đây. Phải nói là ngôi nhà nào cũng lưu giữ máu xương liệt sĩ.
Dường như sợ chúng tôi chưa hiểu, Văn Bốn giải thích:
- Thì bom đạn như thế, máu xương hòa vào đất cát nuôi sống cỏ cây làm màu xanh tươi tốt. Đất đóng gạch, cát trộn vữa... xây nhà.
Nhà văn Cao Hạnh chỉ lên các ngôi nhà cao tầng:
– Các anh hùng liệt sĩ đang hiển linh trong từng hạt cát trên các ngôi nhà kia.
Có một phút im lặng. Chỉ có gió thì thào thổi và đêm Thành Cổ như chìm vào thế giới hồng hoang.
Người ta kể rằng: Thời loạn lạc, có làng bị máy bay thả bom, pháo bầy từ biển câu vào tan hoang, đổ nát. Người chạy lên núi hết, cũng chỉ kịp mang theo lương thực, một số đồ dùng cần thiết, trâu bò; còn chó mèo, gà vịt nhà mang được nhà không. Chúng chạy rông, kiếm ăn. Gà thì trụi hết lông, da đỏ au, đáng điệu ngờ ngệch. Chó cũng rụng hết lông, da tím đỏ nhưng sủa và chạy rông như bị dại. Khốn nạn, chiến tranh và đói, đến người còn phải chạy, lấy ai nuôi chúng? Mà sao mấy con gà béo múp và đần độn, ngơ ngác, đuổi không chạy; mấy con chó bị bỏ quên lại béo nân và phát dồ, thở hồng hộc. Hoá ra chúng đói quá mổ, táp cả những miếng thịt người bị bom đánh văng vãi khắp nơi. Đói ăn thì lê lết, bới, cào, gặp cái gì chúng chén cái ấy. Bom đạn đánh mãi cũng làm cho mấy con chó dạn dĩ, không sợ; nhưng cứ thấy bóng người là chúng chạy trốn, chủ nhà từ nơi sơ tán về thăm chúng cũng chẳng thèm ngo ngẩy đuôi mừng rỡ, không nhận ra. Rồi cũng đến lúc chúng ớn quá, sợ mùi thịt người chết và sợ luôn mùi người sống? Đó là sự ám ảnh ghê sợ, kinh hoàng.
Ở Thành Cổ - Quảng Trị mức độ khốc liệt còn dữ dội hơn nhiều. Không còn dấu vết một ngọn cỏ, gốc cây nào. Không còn ngôi nhà, bước tường nào nguyên vẹn. Có chăng, chỉ còn ngôi trường Bồ Đề, nhưng cũng nham nhở, lỗ chỗ lỗ đạn ghim, mảnh đạn cày. Bây giờ người ta giữ nguyên trạng tàn phế của ngôi trường để làm chứng tích chiến tranh.
Những người lính từng tham chiến 81 ngày đêm Thành Cổ may mắn đi qua chiến tranh dù thương tích đầy người kể rằng: Khói và bụi trùm lên trận địa như những cây nấm, như những đám mây mịt mùng che cả tầm ngắm bắn. Gạch đất đá, sắt thép, thị xương con người cũng hoá thành tro bụi bởi đạn bom, thử hỏi có con gà, con chó nào sống nổi để mà đỏ da, trụi lông?
Đêm chầm chầm vào sâu. Ly cafê đã cạn từ lúc nào rồi mà chúng tôi chưa muốn về nhà nghỉ. Phía Thành Cổ vẫn im lìm và lẫn vào màu sẫm, chỉ có tượng đài có hình ngọn lửa vĩnh cửu là cháy sáng thâu đêm. Bất chợt tôi bắt gặp chi chít những chấm sáng lập loè dọc bờ Nam sông Thạch Hãn.
Hoá ra, ngày rằm, bà con thắp hương cho những người đã khuất và đã thành tục lệ, thành nếp sống của người dân Quảng Trị. Ngày thường cũng thắp hương, những đêm mùng một, tối ba mươi, ngày rằm càng thắp nhiều hơn ở khắp nơi, dày đặc nhất vẫn là bờ Nam sông Thạch Hãn và khu Thành Cổ. Khói hương mơ màng, quẩn quanh không chịu tan bên sông đêm thanh vắng. Chúng tôi, không ai bảo ai đều đứng dậy mua hương ở các hàng bên cạnh. Nén hương này cho anh, nén hương này cho chị..., nén hương này nữa cho những cô hồn phiêu dạt. Chúng tôi xin các anh, chị linh thiêng phù hộ cho đất nước ta mãi mãi thanh bình.
Sương Nguyệt Minh
................ * (Nguồn: nhavan.vn)