Tăng cường phòng chống sâu bệnh hại lúa
(QT) - Hiện nay, lúa đại trà đang ở giai đoạn đòng trổ. Thời tiết thuận lợi cho cây lúa sinh trưởng và phát triển, đồng thời cũng thuận lợi cho một số sâu bệnh phát sinh và gây hại, nhất là rầy nâu, bệnh khô vằn, bệnh đen lép hạt đang phát sinh ở diện rộng. Vì vậy, nông dân cần chú ý một số đặc điểm, quy luật phát sinh và các biện pháp phòng trừ của các loại sâu bệnh đang phát sinh và gây hại diện rộng.  Rầy là đối tượng gây hại nguy hiểm trên cây lúa có khả năng bùng phát và phát tán lây lan ...

Tăng cường phòng chống sâu bệnh hại lúa

(QT) - Hiện nay, lúa đại trà đang ở giai đoạn đòng trổ. Thời tiết thuận lợi cho cây lúa sinh trưởng và phát triển, đồng thời cũng thuận lợi cho một số sâu bệnh phát sinh và gây hại, nhất là rầy nâu, bệnh khô vằn, bệnh đen lép hạt đang phát sinh ở diện rộng. Vì vậy, nông dân cần chú ý một số đặc điểm, quy luật phát sinh và các biện pháp phòng trừ của các loại sâu bệnh đang phát sinh và gây hại diện rộng. Rầy là đối tượng gây hại nguy hiểm trên cây lúa có khả năng bùng phát và phát tán lây lan nhanh gây cháy rầy khi gặp điều kiện thuận lợi. Rầy nâu còn là môi giới truyền các bệnh virus (vàng lùn và lùn xoắn lá). Vòng đời rầy nâu: 28-35 ngày. Rầy trưởng thành có 2 loại cánh ngắn và cánh dài, khi gặp điều kiện bất lợi như lúa cháy, thiếu thức ăn thì rầy cánh ngắn chuyển qua cánh dài để phát tán. Nếu trên đồng ruộng xuất hiện rầy trưởng thành cánh ngắn thì khả năng gây cháy cao, còn khi xuất hiện rầy trưởng thành cánh dài thì khả năng lây lan lớn. Rầy nâu dùng miệng chích vào cây lúa để hút dịch. Lúa ở thời kỳ đẻ nhánh nếu bị hại thì trên thân cây lúa hình thành các vết màu nâu đậm. Nếu bị nặng, mạch dẫn nhựa trong cây bị phá hủy nghiêm trọng làm cho cây lúa bị khô gây ra hiện tượng cháy rầy. Lúa ở thời kỳ làm đòng và trổ nếu bị rầy gây hại với mật độ cao thì làm cho lúa bị cháy, năng suất giảm rõ rệt, có khi mất trắng.

Phun thuốc trừ rầy ở Gio Linh.

Thực hiện các biện pháp phòng chống rầy nâu như vệ sinh đồng ruộng để hạn chế cỏ dại, lúa chét, tàn dư cây trồng là những ký chủ trung gian của rầy nâu; chọn giống kháng; gieo thưa hợp lý; bón phân cân đối, đúng liều lượng, đúng lúc tạo điều kiện cho cây lúa khỏe kháng rầy tốt hơn; không để ruộng bị khô nước, ở những nơi chủ động nước có thể dâng cao mực nước từ 10-25 cm để diệt trứng rầy; dùng bẫy đèn để thu hút và tiêu diệt rầy trưởng thành cánh dài; thăm đồng thường xuyên, theo dõi rầy phát sinh vào thời kỳ lúa bắt đầu làm đòng đến khi trổ chín, nhất là trên các giống nhiễm rầy. Tùy theo mật độ rầy và giai đoạn sinh trưởng của cây lúa mà sử dụng các loại thuốc phù hợp để diệt rầy. Giai đoạn từ đẻ nhánh đến làm đòng nên dùng các loại thuốc lưu dẫn tốt để trừ rầy. Phổ biến cho nhóm thuốc lưu dẫn hiện nay bao gồm: Actara, chees, Armada, Sutin. Giai đoạn trổ trở về sau khả năng hấp thu của cây lúa kém dần nên sử dụng thuốc tiếp xúc như Bassa, Vicondor, Midan,Trebon, Legent... Để diệt trứng rầy phòng tái phát lứa sau nên hỗn hợp một trong những thuốc trên với thuốc Applaud hay Difluent để phun cùng lúc. Khi phun trừ rầy giai đoạn lúa trổ về sau phải rẽ hàng và phun trực tiếp vào gốc lúa nơi rầy cư trú mới tiêu diệt được rầy tận gốc. Ngoài ra, nông dân cần phòng trừ rầy lưng trắng với các biện pháp tương tự rầy nâu, bởi vì rầy lưng trắng là môi giới truyền bệnh sọc đen trên lúa và ngô. Lưu ý, khi phun thuốc cần phải dâng cao mực nước trong ruộng để rầy di chuyển lên thân, lá lúa để dễ tiếp xúc với thuốc. Bệnh khô vằn là đối tượng bệnh hại quan trọng trên cây lúa. Bệnh gây hại làm giảm năng suất và chất lượng lúa gạo, hạt lúa bị lép lửng, gạo xay bị nát, chất lượng gạo thấp. Tác nhân gây bệnh do nấm Rhizoctonia solani. Nấm bệnh khô vằn lưu tồn dưới dạng hạch nấm. Hạch nấm là những hạt nhỏ, màu trắng đến nâu nhạt. Hạch nấm lưu tồn trong đất và lây lan qua đất, nước, tàn dư cây trồng bị bệnh. Bệnh phát sinh và phát triển mạnh trong điều kiện nhiệt độ và ẩm cao, nhiệt độ 25 - 30oC, ẩm độ trên 90%. Gieo sạ mật độ dày, bón phân không hợp lý, không cân đối giữa tỷ lệ N:P:K, đặc biệt là thừa phân đạm là điều kiện thích hợp cho nấm bệnh phát sinh và lây lan. Bệnh lúc đầu xuất hiện trên các bẹ lá gần mặt nước, vết bệnh là những đốm có màu nâu nhạt đến xám, kích thước khác nhau với đường viền màu nâu. Vết bệnh có hình vằn loang lổ như da báo. Giai đoạn lúa chưa khép tán, bệnh phát triển ở phần gốc lúa; khi tán lá khép kín, bệnh phát triển lên lá và bông. Giai đoạn lúa làm đòng thích hợp nhất cho bệnh phát triển. Bệnh xuất hiện thành từng ổ, sau đó có thể lan rộng ra. Bệnh nặng làm cho toàn bộ cây lúa bị héo khô, thân mềm nhũn, hạt bị lép lửng; giảm năng suất. Hiện nay chưa có giống kháng bệnh khô vằn nên biện pháp canh tác là biện pháp phòng bệnh hiệu quả nhất. Sau khi thu hoạch lúa nên dọn sạch rơm rạ để hạn chế hạch nấm. Cày ải lật đất để chôn vùi hạch nấm trước khi gieo sạ. Mật độ gieo sạ vừa phải, lượng giống khoảng 60 - 70 kg/ha (nếu sạ theo hàng bằng máy), từ 100 - 120 kg/ha (nếu gieo vãi bằng tay). Sử dụng sạ hàng là một trong những biện pháp quản lý khô vằn hiệu quả. Bón phân đầy đủ, cân đối, tăng cường bón phân hữu cơ, vôi. Nên sử dụng bảng so màu lá lúa để bón phân cho lúa, nhằm giảm lượng đạm bón thừa. Quản lý ruộng sạch cỏ dại sẽ hạn chế được bệnh. Thường xuyên thăm đồng, những nơi ruộng quá tốt, lúa mọc quá dày là nơi bệnh dễ xảy ra. Nếu phát hiện có bệnh phải lập tức ngừng bón đạm, ngừng phun phân bón lá có đạm và kịp thời phun thuốc trừ bệnh bằng các loại thuốc đặc hiệu như Nevo và các loại thuốc có hoạt chất Validamycyn như Validacin 5L, Vanicide 3SL, Pin vali 5SL. Bệnh đen lép hạt là loại bệnh gây hại trên bông hạt nên nguy cơ giảm năng suất là rất lớn. Khi bệnh xuất hiện, trên vỏ trấu của hạt lúa có những vết lốm đốm màu nâu, nâu đen... làm cho hạt lúa bị lửng hoặc lép hoàn toàn. Bệnh xuất hiện và gây hại khá phổ biến trên cây lúa ở giai đoạn trổ đến chín. Bệnh đen lép do nhiều nguyên nhân như vi khuẩn, nhện gié, côn trùng chích hút nhưng chủ yếu vẫn là do một tập đoàn nấm gây ra. Những nấm này không chỉ gây bệnh cho hạt lúa trên đồng ruộng, mà còn tồn tại trên vỏ trấu để tiếp tục gây hại cho hạt lúa sau khi thu hoạch ở giai đoạn hạt lúa còn ẩm chưa kịp phơi khô. Ở giai đoạn trổ chín, nếu gặp mưa kéo dài thì bệnh sẽ phát sinh và gây hại mạnh, tỷ lệ hạt lép lửng sẽ rất cao, có khi lên đến 50%. Những ruộng bị bệnh đạo ôn, khô vằn, vàng lá chín sớm, đốm nâu cũng sẽ là những ruộng bị bệnh đen lép nặng. Để hạn chế tác hại của bệnh, nông dân phải áp dụng kết hợp nhiều biện pháp một cách hợp lý như sau: Không lấy lúa ở những ruộng đã bị bệnh gây hại để làm giống. Trước khi ngâm ủ phải phơi thật khô, quạt thật sạch để loại bỏ hết những hạt lép lửng. Do nấm và vi khuẩn gây bệnh tồn tại ngay trên vỏ trấu, vì thế để phòng bệnh lây nhiễm cho vụ sau phải xử lý giống trước khi ngâm ủ. Bón phân đầy đủ và cân đối giữa đạm, lân và kali, không bón thừa đạm. Những ruộng bị nhiễm phèn, nên tăng cường thêm vôi. Biện pháp hóa học là hiệu quả nhất để giảm thiệt hại do đen lép hạt gây ra nên tiến hành phun thuốc hóa học hai lần vào thời điểm khi lúa bắt đầu trổ 5-7% và khi lúa trổ đều bằng các loại thuốc đặc hiệu sau Tilt supe: Workup 9SL; Nevo; Vitin New 250EC, liều lượng và nồng độ theo hướng dẫn cách sử dụng thuốc trên bao bì. Bài, ảnh: TRẦN THẢO HIỀN