HỒ ĐẠI NAM, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Trị
(QT) - Năm mươi năm về trước, ngày 2/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra đi, để lại nỗi tiếc thương vô hạn đối với đồng bào và chiến sĩ cả nước, kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế. Trước lúc ra đi, Người để lại Di chúc thiêng liêng, kết tinh trong đó những điều cốt lõi về tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là văn kiện có giá trị vô cùng to lớn đối với quá trình cách mạng và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ta trên nhiều phương diện, chứa đựng nhiều nội dung quan trọng về sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bồi dưỡng thế hệ trẻ; về đoàn kết quốc tế; về quản lí xã hội, chính sách xã hội, an sinh xã hội sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta giành thắng lợi và về việc riêng của Người. Mỗi nội dung trong đó là những vấn đề cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam trong các thời kì khác nhau và đích đến cao nhất của Di chúc là “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần vào thắng lợi chung của cách mạng thế giới”.
Năm mươi năm qua, Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là nguồn cổ vũ, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy tinh thần yêu nước, đại đoàn kết toàn dân tộc, vượt qua thử thách, giành những thắng lợi vẻ vang, đưa cả nước bước vào thời kì mới, thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Thực hiện lời Di chúc thiêng liêng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ, quân và dân tỉnh Quảng Trị đã đồng hành với toàn Đảng, toàn quân và nhân dân cả nước trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, đi lên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những ngày đầu tháng 9/1969 lịch sử, giữa chiến trường ác liệt, lòng mỗi chiến sĩ, đồng bào Quảng Trị hướng về Thủ đô Hà Nội với xiết bao xúc động khi nghe lời mở đầu bản Di chúc thiêng liêng: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hi sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”. Biến đau thương thành hành động cách mạng, hướng về Đảng và Bác Hồ, vào niềm tin tất thắng, quân và dân Quảng Trị luôn vững vàng nơi đầu cầu giới tuyến, không quản gian khổ, hi sinh, dù mưa bom, bão đạn sát cánh cùng với quân và dân cả nước anh dũng chiến đấu, lập nên những chiến công vang dội.
Tình hình chiến trường miền Nam từ cuối năm 1969 dù đi vào thời kì khó khăn, ác liệt, song trên địa bàn Quảng Trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là Đảng bộ tỉnh, phong trào cách mạng ở Quảng Trị bước sang một giai đoạn phát triển mới. Lực lượng 3 thứ quân hoạt động rộng khắp trên 3 vùng chiến lược. Quân và dân ta đã mở các đợt tấn công táo bạo vào căn cứ của địch ở các huyện Triệu Phong, Hải Lăng, Cam Lộ, Gio Linh.
Mùa xuân năm 1971, phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực và sự giúp đỡ của nước bạn Lào, quân và dân Quảng Trị đã góp phần đập tan cuộc hành quân Lam Sơn -719 của địch trên đường 9- Nam Lào. Sau thất bại nặng nề của địch trên các chiến trường, ngày 11/3/1972, Thường vụ Quân ủy Trung ương ra Nghị quyết tiến hành cuộc tấn công chiến lược năm 1972, Bộ Tư lệnh chiến dịch Trị - Thiên 1972 được thành lập, với kế hoạch quyết tâm phá vỡ tuyến phòng thủ, nhanh chóng đột phá thọc sâu vào lực lượng địch, đánh tập trung, hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, thực hiện quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ, giải phóng Quảng Trị. Chỉ sau 2 đợt tấn công và nổi dậy mãnh liệt từ ngày 30/3 đến 1/5/1972, quân và dân Quảng Trị sát cánh cùng với bộ đội chủ lực giáng cho quân địch những đòn sấm sét vào các cứ điểm 54, Đồi Tròn, Đầu Mầu, Ba Hồ, Động Toàn, Quán Ngang, Nhĩ Trung, Dốc Miếu, Cồn Tiên, căn cứ Tân Lâm, Đông Hà, Ái Tử, La Vang…, quét sạch hệ thống phòng ngự kiên cố nhất và đập tan bộ máy kìm kẹp tàn bạo của Mỹ - nguỵ từ sông Bến Hải đến Mỹ Chánh, từ Khe Sanh đến Cửa Việt, một vùng đất rộng lớn của quê hương được hoàn toàn giải phóng.
![]() |
Công nhân lao động Quảng Trị trong ngày hội lớn của quê hương . Ảnh: PHƯƠNG HOAN |
Song, trước sự ngoan cố và liều lĩnh của kẻ thù muốn tái chiếm thị xã Quảng Trị, quân và dân Quảng Trị đã không nao núng, sẵn sàng chiến đấu và phục vụ chiến đấu, cùng với bộ đội chủ lực kiên cường bám trụ chiến đấu quả cảm, giữ Thành Cổ Quảng Trị trong 81 ngày đêm của mùa hè 1972 đỏ lửa, thách thức với hàng vạn tấn đạn bom của quân thù. Sự kiện 81 ngày đêm chiến đấu, giữ vững Thành Cổ là thắng lợi oanh liệt mang tầm vóc lịch sử. Thắng lợi đó thể hiện ý chí “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược” mà câu thơ đã trở thành ca dao trong lòng dân Quảng trị: “Nhà tan cửa nát cũng ừ/đánh thắng thằng Mỹ, cực chừ, sướng sau”.
Thắng lợi to lớn trên cả 3 mặt quân sự, chính trị và ngoại giao, đặc biệt là thắng lợi của trận “Điện Biên Phủ trên không” cuối năm 1972 trên bầu trời Hà Nội, quân và dân Quảng Trị vui mừng và tự hào với thắng lợi Xuân - Hè năm 1972 đã góp phần to lớn cùng với cả nước thay đổi cục diện chiến tranh, buộc đế quốc Mỹ phải ngồi vào bàn đàm phán, đặt bút kí Hiệp định Pa -ri (ngày 27/3/1973), đánh dấu sự thất bại của quân đội Mỹ xâm lược.
Bước vào mùa xuân năm 1975 bừng bừng khí thế tiến công cách mạng, quân và dân Quảng Trị nổi dậy đấu tranh giải phóng phần đất của huyện Triệu Phong và Hải Lăng còn lại, góp phần giải phóng Thừa Thiên- Huế, cùng cả nước tiến hành cuộc tổng tiến công mùa xuân năm 1975, làm nên đại thắng mùa xuân lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, thỏa lòng mong ước theo Di chúc thiêng liêng của Người.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc thắng lợi, Quảng Trị cùng với cả nước bước vào kỉ nguyên mới, bắt tay vào xây dựng và tái thiết quê hương. Từ nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến, giải phóng dân tộc, Đảng bộ Quảng Trị yêu cầu phải nhanh chóng chuyển sang chỉ đạo và tổ chức thực hiện những công việc mới mẻ, đầy khó khăn trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Thực hiện lời căn dặn trong Di chúc của Bác: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”, phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bằng sức mạnh ý chí tự lực, tự cường, quân và dân Quảng Trị rời tay súng, tích cực đi vào sản xuất, khai hoang, phục hóa, đẩy mạnh sản xuất. Những núi đồi, đồng quê, bãi cát dày đặc hố bom cày, đạn xới được phủ dần màu xanh của lúa, của sắn, của khoai…Mảnh đất được hồi sinh, cuộc sống mới từ đây được xây dựng khắp nơi trên quê hương sau ngày giải phóng.
Thực hiện chủ trương Quảng Trị sáp nhập cùng hai tỉnh Quảng Bình và Thừa Thiên - Huế, nhân dân Quảng Trị phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, chung sức, chung lòng, vượt qua gian khổ, ra sức xây dựng tỉnh Bình Trị Thiên giàu đẹp. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, đời sống nhân dân từng bước ổn định, quốc phòng- an ninh được tăng cường, chủ động đập tan âm mưu phá hoại, lật đổ của các thế lực thù địch, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
![]() |
Đưa cơ giới hóa vào nông nghiệp góp phần giải phóng sức lao động cho nông dân . Ảnh: TRỊNH HOÀNG TÂN |
Tháng 7/1989, tỉnh Quảng Trị được lập lại với bao bộn bề, khó khăn của ngày đầu chia tách. Đó là điểm xuất phát nền kinh tế của tỉnh quá thấp. Cơ sở vật chất, hạ tầng kĩ thuật nghèo nàn và xuống cấp. Đời sống của nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc còn nhiều khó khăn, nhiều vấn đề bức xúc đặt ra trên các lĩnh vực đời sống xã hội cần phải được tập trung giải quyết. Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong cuộc kháng chiến chống xâm lược, với khát vọng và ý chí vươn lên, Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị đã bền bỉ, kiên trì, vượt lên hoàn cảnh, vượt lên chính mình, mạnh dạn dám nghĩ, dám làm đã khẳng định bằng những thành quả quan trọng sau 30 năm trên con đường mới, xây dựng.
Nền kinh tế liên tục tăng trưởng với nhịp độ cao, tương đối toàn diện, có mặt đi vào chiều sâu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân mỗi năm đạt 7,8%, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2018 đạt 27.503 tỉ đồng, gấp 188 lần so với năm 1989. GRDP bình quân đầu người tính theo giá hiện hành là 43,6 triệu đồng/năm. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì GRDP bình quân đầu người năm 2018 tăng 7,6 lần so với năm 1989. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng; nông, lâm nghiệp - công nghiệp và dịch vụ phát triển toàn diện. Các vùng chuyên canh cây nông nghiệp và cây công nghiệp được hình thành và phát triển nhanh, đến nay toàn tỉnh có hơn 19.512 ha cao su, tăng 4,6 lần, 2.533 ha hồ tiêu, tăng 3,8 lần, 5.106 ha cà phê, tăng 6,6 lần so với năm 1989. Sản phẩm cao su, cà phê, hồ tiêu, tinh bột sắn, tinh bột nghệ, dược liệu… đã trở thành hàng hóa nông sản quan trọng, có giá trị kinh tế cao, giải quyết việc làm cho nhiều người lao động. Hàng trăm công trình thủy lợi, thủy điện, điện gió và các cụm, khu công nghiệp lớn được xây dựng. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp và tổng vốn đầu tư toàn xã hội hàng năm tăng trưởng nhanh, bình quân mỗi năm đạt 14%. Bộ mặt đô thị, nông thôn có nhiều khởi sắc.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ. An sinh xã hội được quan tâm và thực hiện có hiệu quả. Giáo dục đào tạo có chuyển biến cả về quy mô và chất lượng; hệ thống trường học được xây dựng kiên cố, cao tầng; con em đồng bào dân tộc thiểu số được tạo mọi điều kiện thuận lợi để đến trường. Kết quả đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học, phổ cập giáo dục THCS và xóa mù chữ tiếp tục duy trì vững chắc. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được đẩy mạnh, không để xảy ra dịch bệnh nguy hiểm. Cơ sở vật chất của ngành Y tế từ tuyến tỉnh tới cơ sở được đầu tư nâng cấp. Đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo được cấp thẻ bảo hiểm y tế.
Công tác an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, chăm lo đối tượng thương, bệnh binh, người có công, gia đình liệt sĩ trở thành quyết tâm chính trị, được tổ chức thực hiện quyết liệt, trở thành phong trào rộng khắp được nhân dân và các địa phương, đơn vị, doanh nghiệp quan tâm ủng hộ, hưởng ứng. Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được những thành tựu nổi bật, đã xóa được hộ đói, tỉ lệ hộ nghèo giảm nhanh. Nếu như năm 1989, tỉ lệ hộ nghèo (theo tiêu chí cũ) chiếm trên 64,7%, năm 2000 giảm còn 26% và năm 2015, tỉ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều) giảm xuống 15,43%, đến năm 2018 giảm xuống chỉ còn 9,68%. Các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch, thông tin truyền thông, chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào đời sống, sản xuất có nhiều tiến bộ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
![]() |
Tuổi trẻ Quảng Trị làm theo Bác. Ảnh: T.L |
Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể các cấp đã quan tâm xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân”, xây dựng lực lượng vũ trang địa phương vững mạnh toàn diện, từng bước chính quy, hiện đại. Thực hiện đồng bộ các giải pháp đấu tranh làm thất bại âm mưu “Diễn biến hòa bình”, “bạo loạn, lật đổ” và các hoạt động gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thấm nhuần tư tưởng và thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác về chăm lo xây dựng Đảng, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn đảng, Đảng bộ Quảng Trị luôn chăm lo xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, phát huy dân chủ và thực hiện tốt đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng bộ; chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống, nêu cao tính tiên phong gương mẫu, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu. Việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), khóa XII về xây dựng Đảng đạt được những kết quả bước đầu quan trọng và đang có sức lan tỏa sâu rộng trong toàn xã hội. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được phát huy.
Quan tâm chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ kế tục sự nghiệp cách mạng cho đời sau theo căn dặn của Người, Đảng bộ Quảng Trị đã tập trung chỉ đạo công tác giáo dục lí tưởng, đạo đức và truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ; chú trọng nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Đồng thời tạo điều kiện để thanh niên cống hiến, trưởng thành, phát huy vai trò xung kích trên mọi mặt của đời sống xã hội, xứng đáng là thế hệ trẻ vừa “hồng”, vừa “chuyên”, phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của quê hương.
Tuy nhiên, nhìn lại chặng đường 50 năm qua, chúng ta vẫn còn nhiều điều trăn trở vì những kết quả đạt được so với mục tiêu, yêu cầu và sự kì vọng của nhân dân vẫn còn khoảng cách rất lớn, đó là: Quảng Trị vẫn là một tỉnh còn nhiều khó khăn, đời sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn thấp kém. Một số mặt trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, bảo vệ môi trường vẫn còn hạn chế, tồn tại và có nhiều bức xúc nhưng chưa được khắc phục; tình trạng phai nhạt lí tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, suy thoái về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến, “tự chuyển hóa” vẫn đang diễn ra trong một số cán bộ, đảng viên... Đó là thách thức lớn đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Quảng Trị cần phải nỗ lực phấn đấu cao hơn nữa.
Hiện nay, trước bối cảnh tình hình của đất nước với nhiều thời cơ, thuận lợi nhưng cũng đan xen những khó khăn, thách thức, vì vậy nhiệm vụ chính trị của toàn Đảng bộ tỉnh đang đặt ra hết sức nặng nề, đòi hỏi các ngành, các cấp, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân trong tỉnh phát huy truyền thống vẻ vang và những thắng lợi đã đạt được, tiếp tục thấm nhuần sâu sắc và thực hiện nghiêm túc Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), khóa XII về xây dựng Đảng, gắn với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; đoàn kết, đồng lòng, đồng sức, vượt qua khó khăn, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước bằng hành động, việc làm cụ thể, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đề ra, góp phần xây dựng tỉnh Quảng Trị phát triển, văn minh và giàu đẹp, thỏa lòng mong ước của Người trước lúc đi xa.