(QT) - Người ta nói tết nhất mà không có áo quần mới là như không có tết. Hẳn là vì ngày xưa dân mình nghèo quá mà sinh ra vậy. Mỗi năm cùng lắm chỉ được may một bộ đồ mới vào dịp tết, thành ra đó là bộ áo quần đẹp nhất. Người Quảng Trị xưa gọi nó là bộ đồ “cố muồi”.
![]() |
-Tranh: TRƯƠNG ĐÌNH DUNG |
Lúc chúng tôi nhỏ thường nghe, bây giờ thì chỉ thi thoảng các cụ mới nhắc tới hai chữ “cố muồi”. Tôi đã hỏi nhiều người về nghĩa của hai từ ấy. Giới trẻ hầu như không biết. Các cụ cũng chẳng giải thích được. Chỉ bảo rằng đó là từ ngày xưa hay dùng và nó gắn với thời người ta còn sử dụng bàn ủi con gà. Trẻ con chúng tôi cần đồ mới hơn cả, vì sự hiếu thắng với bạn bè cùng trang lứa, thích khoe mẽ. Mấy mạ ở quê nói may áo trẻ con đừng dùng vải tốt mà thay vào đó là nên may thường xuyên những bộ vải xấu. Trẻ con đâu biết tốt xấu, cứ có đồ mới thì chúng mừng, mau lớn. Ở quê, đứa trẻ nào thích mặc đồ đẹp đều bị quở là mần đị. Có lẽ chữ đị là nói nhại của chữ đĩ trong lối ăn mang, tức là diêm dúa, làm đỏm. Không biết từ đâu mà người ta bảo những ai mắt một mí thì thường ăn mặc điệu đà khéo léo, như câu vè: “Mắt một mí mần đị nhất làng”.
Ngày tết ra đường toàn gặp người mần đị. Phải đến chiều cuối năm, người quê mới rảnh tay lo chuyện mặc vì trước đó phải lo làm bánh trái. Ăn mặc. Ăn trước mặc sau. Người ta đi quanh xóm tìm mượn cho được cái bàn ủi con gà để là ủi áo quần phẳng phiu. Bàn ủi con gà bằng đồng chỉ những nhà khá giả mới sắm. Mỗi làng có chừng dăm ba cái, phải chuyền nhau mượn, thậm chí đến tận giao thừa mới đem trả về nhà chủ. Cho than đỏ vào bàn ủi, để một lúc mặt dưới nóng lên thì dùng được. Chốc chốc lại phải bật nắp con gà quạt cho than đừng tắt ngúm. Có khi bất cẩn tàn lửa bung ra theo mấy lỗ thông hơi làm bộ đồ “cố muồi” cháy vài cái lỗ nhỏ. Ngày đó tới tết nhà ai khấm khá mới may áo cho con, còn như lũ trẻ chúng tôi thì không được may. Bạn tôi ở làng có thằng Cưng tội nhất, hầu như toàn mang đồ cũ của người ta cho. Ừ, thì cũ người mới ta. Nhưng Cưng lanh lẹ, hắn biết cách biến đồ cũ thành đồ mới. Cưng lấy tờ giấy lụa hoa ở trang đầu cuốn vở học, thứ giấy mỏng lót đệm vở Olympia, cắt những hình thù ngộ nghĩnh rồi đặt lên trên áo. Dùng bàn ủi con gà nén giữ mảnh giấy lụa một lúc thì mấy cái hình thù in ra vải áo, dù đem giặt bao nhiêu cũng không bị phai. Vậy là chiếc áo trong chốc lát được tân trang rất xịn. Mặc tết cũng chả thua ai. Đó là bộ đồ “cố muồi” độc đáo nhất của trẻ con nhà nghèo.
Để được mặc bộ đồ “cố muồi” thì phải tắm rửa sạch sẽ. Chiều tất niên, mạ nấu cho một ấm nước bồ kết rồi bảo tắm gội. Vài trái bồ kết khô bẻ ra bỏ vào nấu một lúc được màu nước cau cáu nhưng rất thơm. Múc từng gáo nước mà xõa xuống tóc rồi cầm xác trái bồ kết cào cào vào tóc rất thích. Mạ kể rằng ngày xưa có một chàng trai với một cô gái ở cùng làng. Cô gái đi hái dăm trái dại ven sông về phơi khô rồi nấu nước gội đầu cho chàng trai. Dần dà hương trái dại quấn riết hai người lại và họ yêu nhau, vì thế trái đó gọi là trái bồ kết, nói ngược là… kết bồ. Một cách chơi chữ của người quê. Bộ đồ “cố muồi” còn để thanh niên trai tráng mặc đi tán gái. Chú nào có được áo đẹp hẳn nhiên sẽ chứng tỏ mình giàu, các cô rất dễ ưa. Người ta chuộng của chuộng công, nào ai đi chuộng người không bao giờ. Tết năm đó, hai người chú của tôi may một bộ đồ mới. Coi như bộ đồ “cố muồi” cưa đôi cho hai người. Mỗi khi đi tán gái, hai chú lại đổi phiên cho nhau, người hôm trước kẻ hôm sau. Mệ nội nói sợ con gái nó không ưa thôi, chớ đã ưa thì có ở lỗ (không mặc gì) nó cũng lấy. Mệ nói con gái nó không ưa vì tấm áo, mà ưa bởi tấm lòng. Dù nghèo nhưng tấm lòng và tâm hồn mình đừng có nghèo nàn là được. Bởi thế người Quảng Trị gọi tính keo kiệt bủn xỉn là “bần”. Chữ “bần” (nghèo) ở đây để ví cho sự nghèo nàn về tấm lòng. Các cụ cũng thế, già thì già nhưng vẫn thích làm đẹp. Có người được bộ đồ “cố muồi” là giữ rất cẩn thận. Nếu nhà không có rương hộp thì xếp bộ đồ bỏ bao rồi lấy viên gạch chằn đặt ở dưới giường để khỏi mất trộm. Bộ đồ “cố muồi” chỉ được mang trong ba ngày tết và những khi đi đám cưới đám giỗ quan trọng. Bộ đồ lễ phục của các cụ ông là nghiêm chỉnh hơn cả. Vì mỗi người một số đo khác nhau và bắt buộc phải chuẩn xác. Áo quần thường ngày có thể mượn mặc được, nhưng lễ phục thì nhất quyết của ai người ấy dùng. Khó nhất là chiếc khăn đóng đen, người thợ may giỏi đến mấy mà không quen thì không may được. Mỗi cụ ông có một số đo vòng khăn đóng riêng, đội sai số vành khi cúi lạy sẽ bị rơi, bị cho là bất cẩn thất lễ. Cái khăn đóng cũng là một món trong bộ đồ “cố muồi” của những ông cụ nhà quê. Có khi cả đời mỗi cụ chỉ được một chiếc duy nhất, dùng từ khi lên lão cho tới lúc nhắm mắt. Đó, chắc chắn là thứ đồ “cố muồi” quý giá nhất, nghiêm khắc kích cỡ nhất và được giữ cẩn thận nhất. Mỗi năm có dăm ba ngày tết, thế mà chuyện ăn mặc thôi cũng đã tốn kém, mất công. Được bộ đồ mới rồi ai cũng mặc riết không chịu cởi ra, nhớp cũng không chịu cởi, cứ mặc cho mốc muồi lên. Người quê nói mần ăn quần quật cả năm đến tết mới được bộ đồ mới thì cố mà mặc cho muồi (mốc meo) đi mới sướng. Ấy vậy mà gọi là bộ đồ “cố muồi” chăng?
HOÀNG CÔNG DANH