Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xoá đói giảm nghèo
(QT) - Xoá đói giảm nghèo (XĐGN) là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và trình độ phát triển kinh tế -xã hội (KT- XH) giữa các vùng, miền, giữa các dân tộc và cộng đồng dân cư. Các cấp ủy đảng, chính quyền đã nhận thức đúng ý nghĩa, mục tiêu chính trị của các chương trình giảm nghèo. Vì vậy, cùng với việc đẩy mạnh phát triển KT- XH, công tác giảm nghèo trở thành nhiệm vụ chính trị của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức, đoàn thể trên địa bàn tỉnh. Kết quả công tác XĐGN của tỉnh Quảng Trị đã góp phần tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trên địa bàn. Tuy nhiên, kết quả này ở nhiều địa phương trong tỉnh vẫn chưa vững chắc, giữa các vùng, miền khoảng cách giàu nghèo vẫn còn chênh lệch đáng kể, nhất là những địa bàn vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, đời sống của người dân chậm được cải thiện.
.jpg) |
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều kiện để phát triển KT- XH, xóa đói giảm nghèo |
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến đói nghèo như trình độ dân trí thấp, chất lượng nguồn nhân lực hạn chế, thiếu vốn, thiếu kiến thức và kinh nghiệm làm ăn, tập quán sản xuất và sinh hoạt lạc hậu, đông con, bệnh tật thường xuyên, một bộ phận chưa chịu khó làm ăn... Trên cơ sở phân tích rõ nguyên nhân dẫn đến đói nghèo, để thực hiện giảm nghèo nhanh và bền vững đối với các xã, thôn, bản vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao, HĐND tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 06/2012/NQ-HĐND ngày 13/4/2012, triển khai thực hiện từ tháng 5/2012 đến hết năm 2015 tại 9 xã, 23 thôn, bản thuộc các huyện Đakrông, Hướng Hóa, Gio Linh và Vĩnh Linh. Để triển khai Nghị quyết 06 của HĐND tỉnh đạt hiệu quả tốt, dưới sự chỉ đạo của UBND tỉnh, các sở, ban, ngành, các huyện đã xây dựng kế hoạch, đề xuất cụ thể những giải pháp thực hiện đúng mục tiêu, nội dung, yêu cầu của Nghị quyết. Chương trình hành động của Tỉnh ủy Quảng Trị thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯ Đảng (khóa XI) về một số vấn đề an sinh xã hội giai đoạn 2012- 2020 cũng đề ra mục tiêu về việc làm, thu nhập và xóa nghèo, phấn đấu đến năm 2020 tỷ lệ thất nghiệp chung dưới 3%; tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh giảm 2,5-3%/năm, các huyện, xã có tỷ lệ hộ nghèo cao giảm 4%/ năm theo chuẩn nghèo của từng giai đoạn. Nhiệm vụ đặt ra cho cấp ủy, chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể, địa phương là đẩy mạnh triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Chính phủ và chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo nhanh và bền vững, trong đó chú trọng các chính sách tạo việc làm và giảm nghèo đối với các huyện nghèo, ưu tiên đầu tư cho người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số thuộc huyện nghèo, xã biên giới, xã đặc biệt khó khăn, vùng bãi ngang ven biển; thu hẹp chênh lệch giữa các vùng trong tỉnh về mức sống và an sinh xã hội. Ông Lê Đại Lợi, Trưởng Ban quản lý dự án Giảm nghèo nhanh và bền vững huyện Đakrông cho biết: Huyện Đakrông đã triển khai tất cả các hợp phần của các chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững như hỗ trợ sản xuất tạo việc làm tăng thu nhập, giáo dục, dạy nghề, đầu tư cơ sở hạ tầng thôn, bản... đã đạt được kết quả bước đầu. Sau 5 năm thực hiện chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững tại huyện đã có 27.942 hộ vay ưu đãi 362,318 tỷ đồng để đầu tư phát triển sản xuất, làm nhà ở, xuất khẩu lao động, xây dựng công trình nước sạch vệ sinh môi trường...; thu nhập bình quân đầu người từ 2,5 triệu đồng năm 2008 tăng lên 7,37 triệu đồng năm 2013; tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất giai đoạn 2009- 2013 bình quân mỗi năm đạt 16,8%; tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2013 giảm xuống còn 30,56% (theo chuẩn nghèo giai đoạn 2011- 2016), bình quân mỗi năm giảm 5,69% hộ nghèo toàn huyện; cơ sở hạ tầng qua 5 năm có 61 công trình thiết yếu được xây dựng; hỗ trợ xây dựng nhà ở cho 1.144 hộ nghèo; gửi đi đào tạo để xuất khẩu lao động 764 người, trong đó đã xuất khẩu lao động 339 người. 100% hộ nghèo và cận nghèo được cấp thẻ BHYT với 128.121 lượt người được cấp.... Tuy nhiên, trên địa bàn huyện Đakrông do nhiều nguyên nhân mà hộ tái nghèo và phát sinh hộ nghèo vẫn còn cao. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác XĐGN của tỉnh vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Mặc dù UBND tỉnh đã quan tâm chỉ đạo nhưng một số sở, ban, ngành, UBND các huyện, các địa phương vẫn chưa thực hiện nghiêm túc như tinh thần của Nghị quyết 06; chưa thực hiện đúng nhiệm vụ đã được phân công, sự phối hợp thiếu đồng bộ; chưa có sự thống nhất, ưu tiên, tập trung nguồn lực để bố trí thực hiện. Các chương trình đầu tư phân tán và chưa thống nhất. Các phần việc thực hiện chủ yếu tập trung vào xây dựng kết cấu hạ tầng nhưng do là các địa phương nghèo nên hầu như xây dựng mới hoàn toàn, suất đầu tư lớn nhưng nguồn vốn ngân sách phân bổ thấp hơn so với nhu cầu nên đã ảnh hưởng đến việc hoàn thành các mục tiêu mà nghị quyết đã đề ra. Còn về đầu tư phát triển sản xuất; đào tạo, huấn luyện nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ; nâng cao nhận thức của nhân dân trong việc giảm nghèo; trang bị kiến thức làm ăn cho người dân chưa được quan tâm đúng mức. Chưa huy động được nguồn lực đầu tư tổng hợp cho công tác XĐGN mà chủ yếu từ nguồn vốn của chương trình mục tiêu quốc gia, trong khi nguồn này cũng còn hạn chế. Một bộ phận hộ nghèo còn chưa nhận thức đúng về quan điểm, chủ trương XĐGN nên còn trông chờ, ỷ lại nhà nước, có những hộ còn muốn thuộc diện hộ nghèo để được hưởng lợi từ các chính sách nhà nước. Việc phổ biến chuyển giao tiến bộ kỹ thuật còn gặp khó khăn do trình độ nhận thức của người nghèo còn thấp và năng lực của một bộ phận cán bộ khuyến nông, khuyến lâm còn hạn chế. Việc xây dựng các mô hình sản xuất, mô hình khuyến nông để giảm nghèo đạt kết quả ở quy mô thí điểm nhưng khó khăn khi nhân rộng. Công tác xuất khẩu lao động còn chậm. Sự gắn kết giữa vay vốn ưu đãi với công tác tập huấn, hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo chưa chặt chẽ, còn thiếu định hướng nên họ còn lúng túng khi vay vốn sản xuất, kinh doanh. Tỷ lệ hộ tái nghèo, phát sinh nghèo hàng năm còn cao... Ngoài ra, do thiên tai, dịch bệnh luôn rình rập nên công tác XĐGN cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc XĐGN, tạo sự chuyển biến nhanh, mạnh mẽ về đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo, đảm bảo đến năm 2020 các huyện nghèo phát triển ngang bằng các huyện khác trong khu vực, Chính phủ đã ra Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP về chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 63 huyện nghèo của cả nước, trong đó có huyện Đakrông. Theo đó, Chính phủ đã có chính sách đặc biệt ưu đãi hỗ trợ phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp bền vững theo hướng sản xuất hàng hoá, khai thác tốt các thế mạnh đất đai và lao động của địa phương. Đồng thời, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KT- XH phù hợp, thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả theo quy hoạch; xây dựng xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc, nâng cao dân trí, bảo vệ môi trường; đảm bảo vững chắc QP-AN… Ông Lê Văn Quyền, PhóBan Dân tộc tỉnh cho biết: Đây là chính sách ưu đãi của Chính phủ dành riêng cho các huyện nghèo để giảm nghèo nhanh và bền vững. Cấp ủy, chính quyền các cấp đã tập trung chỉ đạo. Vì vậy, mỗi cán bộ cũng như nhân dân phải nhận thức sâu sắc chủ trương của Chính phủ để thực hiện đúng mục tiêu của chương trình đề ra. Mục tiêu được xác định là đến năm 2015 giảm tỷ lệ hộ nghèo tại các xã triển khai Nghị quyết 06 xuống bằng mức trung bình của tỉnh. Đến năm 2020, giảm tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh xuống bằng mức trung bình của khu vực; giải quyết cơ bản vấn đề sản xuất, việc làm, thu nhập để nâng cao đời sống của người dân ở các xã nghèo gấp 5- 6 lần so với hiện nay; lao động nông nghiệp còn khoảng 50% lao động xã hội, tỷ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%; số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%. Vấn đề cấp bách hiện nay làđềra các giải pháp mạnh vàtích cực mới đạt được các mục tiêu đó. Cụ thể là: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, cơ chế về XĐGN phù hợp với yêu cầu trong tình hình mới. Nâng cao trách nhiệm các sở, ban, ngành, chính quyền địa phương đã được giao nhiệm vụ chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện các chính sách, dự án hỗ trợ người nghèo. Đẩy mạnh thực hiện các chương trình phát triển KT-XH; chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn; ứng dụng KHKT vào sản xuất nông nghiệp, nhất là đưa giống cây con mới vào sản xuất; phát triển ngành nghề nông thôn để tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân, nhất là người nghèo; tập trung phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ mũi nhọn tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, từ đó tạo tiềm lực kinh tế và sức mạnh vật chất để thực hiện các chính sách XĐGN. Nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách hỗ trợ người nghèo, tăng cường nguồn lực đầu tư các chương trình, dự án giảm nghèo. Chú trọng hơn nữa việc giảm nghèo ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng có tỷ lệ nghèo cao; kịp thời hỗ trợ các hộ bị thiệt hại do thiên tai, dịch bệnh, hạn chế tái nghèo, phát sinh nghèo. Nâng cao chất lượng các dịch vụ xã hội đi đôi với việc thực hiện đầy đủ chính sách hỗ trợ để người nghèo được tiếp cận và thụ hưởng. Nâng cao năng lực cho cán bộ làm công tác giảm nghèo và hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo. Tổ chức kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện các chính sách XĐGN và thực trạng nghèo đói để có những chính sách sát đúng hơn nữa đối với công tác XĐGN. Tăng cường công tác tuyên truyền, đổi mới nội dung, biện pháp để tuyên truyền, giáo dục phù hợp với trình độ, hiểu biết của người dân, nhất là đồng bào dân tộc ít người nhằm nâng cao nhận thức của người nghèo để họ tự giác vươn lên thoát nghèo, không trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước. Khi các chính sách XĐGN được triển khai tích cực, huy động sự vào cuộc của toàn hệ thống chính trị, của toàn xã hội và người nghèo có ý thức vươn lên thay đổi cuộc sống theo hướng tích cực thì công cuộc XĐGN của tỉnh sẽ được đẩy nhanh và đạt được kết quả như mong muốn. Bài, ảnh: VÕ THÁI HÒA