Chuyện “Đổi bờ- Đấu trí” bên dòng sông giới tuyến
(QT) - Tình cờ, khi tìm lại tài liệu để chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 55 năm truyền thống Vĩnh Linh (Quảng Trị), tôi bắt gặp những trang tư liệu dang dở về một nhân vật đặc biệt- Trung tá Nguyễn Xuân Bái và những câu chuyện đấu trí, đấu lý ly kỳ giữa hai bờ Nam- Bắc giới tuyến, thời ông làm đồn trưởng đồn liên hiệp Cửa Tùng- mà không hiểu sao 5 năm trước (2004) tôi đã lãng quên để không có những dòng viết về ông.  Hơn cả sự tiếc nuối và day dứt khi cái ý định về thăm lại "người hùng giới tuyến" của ...

Chuyện "Đổi bờ- Đấu trí" bên dòng sông giới tuyến

(QT) - Tình cờ, khi tìm lại tài liệu để chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 55 năm truyền thống Vĩnh Linh (Quảng Trị), tôi bắt gặp những trang tư liệu dang dở về một nhân vật đặc biệt- Trung tá Nguyễn Xuân Bái và những câu chuyện đấu trí, đấu lý ly kỳ giữa hai bờ Nam- Bắc giới tuyến, thời ông làm đồn trưởng đồn liên hiệp Cửa Tùng- mà không hiểu sao 5 năm trước (2004) tôi đã lãng quên để không có những dòng viết về ông. Hơn cả sự tiếc nuối và day dứt khi cái ý định về thăm lại "người hùng giới tuyến" của tôi không bao giờ thực hiện được nữa, bởi biết rằng ông đã về bên kia thế giới rồi, ở cái tuổi 82. Những dòng viết muộn màng này xin nguyện làm nén nhang gửi về ông nơi chín suối. Khác với những gì tôi tưởng tượng về hình ảnh những người hùng chiến trận, ông Nguyễn Xuân Bái với dáng người nhỏ thó, khuôn mặt hiền khô và nụ cười cởi mở. Ở cái tuổi bát thập, sức khỏe ông đã yếu, duy chỉ có giọng nói vẫn cứ sang sảng, dứt khoát với âm hưởng rặt tiếng địa phương. Ông có thói quen hút thuốc liên tục. Ông cười, bảo "Nhờ nó, tui mới sống nỗi những tháng ngày căng thẳng của 40 năm trước"... Ông tên thật là Nguyễn Kế Bái, sinh năm 1926, người Quảng Bình. Tốt nghiệp bằng Diplome (theo chương trình phổ thông của Pháp). Tham gia cách mạng từ năm 1947. Khi điều vào Vĩnh Linh công tác (1954), làm trợ lý tác chiến khu công an Vĩnh Linh với quân hàm thiếu úy, ông đổi tên thành Nguyễn Vũ Bảo. Giai đoạn 1960, khi tình hình hai bờ giới tuyến bắt đầu có những dấu hiệu căng thẳng, ông được điều động làm đồn trưởng đồn Cửa Tùng. 4 năm, từ 1960 đến 1964, từ chàng thiếu úy trẻ măng, song với phong cách, bản lĩnh, ý chí của người chiến sĩ cách mạng và tố chất thông minh, quyết đoán, táo bạo đã đưa ông Bái trở thành người đồn trưởng xuất sắc nơi tuyến đầu Tổ quốc. Chuyện ông Bái đối mặt và đấu trí với đồn trưởng bờ Nam, tên là Hiển- một sĩ quan ngụy dạng có số má, khét tiếng hiểm ác, manh động và liều lĩnh- đã trở thành giai thoại.

Cầu Hiền Lương, sông Bến Hả hôm nayi. Ảnh: Minh Hoàn
Theo quy chế hoạt động khu phi quân sự vùng giới tuyến, mỗi tuần các cặp đồn liên hợp hai bên đều phải thực hiện hoạt động đổi bờ, tức là kiểm tra chéo, đồn này sang thị sát đồn kia, rồi họp mặt giao ban, phản ánh tình hình và ký sổ. Đều đặn phải vậy. Thời gian đầu thực hiện khá nghiêm túc, chẳng có gì xảy ra. Bắt đầu từ cuối năm 1958, đầu 1960, bờ Nam bắt đầu giở trò "cù nhầy", gây khó dễ, sau lấn tới khiêu khích, thậm chí là gây hấn với thái độ rất ngông nghênh, láo xược. Biết rõ âm mưu của "bờ Nam" là hoàn toàn thiếu thiện chí hợp tác, từng bước phá hoại Hiệp định, xé bỏ cam kết, phá tổng tuyển cử, âm mưu chia cắt đất nước lâu dài và sẵn sàng xâm chiếm miền Bắc. Cấp trên chỉ thị là không được nổ súng hay gây xung đột trong bất cứ tình huống nào. Nguyên tắc bất di bất dịch khi đối mặt và đối đầu với chúng là "cố gắng hòa giải, tránh đụng độ nhưng quyết không nhân nhượng". Bằng mọi giá chúng ta phải thực thi đúng cam kết, bảo vệ lẽ phải, tránh không để bị cuốn vào âm mưu của địch để chúng lấy cớ phá hoại Hiệp định. Một công việc thật khó, thật phức tạp, đòi hỏi bản lĩnh vững vàng, sự thông minh nhanh nhạy trong ứng biến của người đứng mũi chịu sào. 4 năm đối mặt với những trò quỹ quái của bầy lũ tay sai bán nước, có những khi căng thẳng vượt ngoài sức chịu đựng, tưởng đã không thể nhịn được nữa... song cuối cùng, ông Bái cũng đã biết cách hóa giải hết, thể hiện rõ bản lĩnh, chính kiến của người chiến sĩ cách mạng, làm cho địch phải "tâm phục khẩu phục". Ông kể: "Đầu năm 60, tình hình bắt đầu rục rịch. Dân miềng (bờ Bắc) qua bờ Nam bị dọa nạt, bắt bớ. Chúng cho xây nhà ra sát bờ sông (vi phạm quy chế DMZ), tuyên truyền mỵ dân kêu là xây chuồng lợn, thực chất là xây công sự, lô cốt... Trong hoạt động giao ban hàng tuần, địch giở trò khiêu khích trắng trợn như không chịu ký sổ, xé sổ, lý sự cùn, phá nhà ở đồn liên hợp, rêu rao "Bắc tiến", tăng cường trinh thám trên không, tung biệt kích qua bờ Bắc... Căng thẳng nhất là các năm 1962, 1963". Ông Bái nhớ lại "Lúc đó, thằng cha Hiển giở đủ trò. Chúng phá đồn liên hợp. Anh em tui qua đổi gác, kiểm tra, phải căng bạt nằm phơi mình trên cát. Ròng rã 6 tháng trời vậy. Tui kiên quyết đấu tranh, bằng mọi cách bắt chúng dựng lại nhà. Tui mời ủy ban Liên hợp, ủy ban giám sát quốc tế đến tận nơi chứng kiến... Cuối cùng, thằng cha Hiển đành phải chấp nhận". Trước khi bên kia chịu thực hiện, có một cuộc đối thoại, thực chất là cuộc đấu trí, đấu lý ly kỳ diễn ra giữa 2 đồn trưởng. Ông Bái hào hứng kể lại: "Hôm đó, thằng cha Hiển mời tui sang. Vừa ngồi vô bàn, hắn rút súng ngắn đánh "rắc", đặt "cộp" trên bàn, hất hàm hỏi "Chừ ông muốn chi?". Nóng mặt, người chiến sĩ đi cùng toan rút súng. Ông Bái cũng "cay mũi" lắm trước thái độ xấc xược của tên sĩ quan ngụy, nhưng kịp thời trấn tĩnh và ngăn người đồng chí lại. Ông rành rọt nói: "Anh với tui là người hai phía, theo hai chế độ khác nhau. Nói rõ hơn nữa, tui với anh thực chất là kẻ thù của nhau. Nhưng ngồi đây, tui với anh có một điều chung: Chúng ta đều là người Việt Nam, cùng một dòng máu Việt. Cái ấy chung để tui với anh ngồi nói chuyện cho đàng hoàng, chứ anh đừng đem súng ra đây. Anh có súng, tui cũng có súng. Muốn đọ súng với nhau, không khó. Nhưng để nói với nhau, hiểu nhau mới là chuyện quan trọng". Đồn trưởng Hiển sau phút đầu ngông nghênh, ngồi im re, mặt thần ra. Biết đối phương đã bắt đầu "ngấm thuốc", ông nhấn mạnh vô cái điều cần nói, bằng giọng dứt khoát, rành mạch: "Anh hỏi tui muốn gì à? Cái tui muốn là lớn lắm. Tui muốn thống nhất đất nước. Nhanh. Nhất định Nam- Bắc phải một nhà. Đó là cái muốn lớn nhất. Thứ hai, tui muốn bà con hai miền được tự do đi lại càng sớm càng tốt. Cái muốn nữa là đừng có cảnh "nồi da xáo thịt". Các anh đi lính, làm tay sai cho giặc. Tui giả sử anh chấp nhận cuộc đời anh đã bỏ đi, nhưng còn con cháu anh sẽ nghĩ răng về chuyện nớ...". Một lần khác, ông Bái qua kiểm tra bờ Nam, sau khi đã hoàn tất mọi thủ tục đúng quy định, tên Hiển không biết lấy cớ gì để gây gổ, khiêu khích. Khi ngồi vô bàn chuẩn bị ký sổ giao ban, hắn chợt thấy cái hộp đựng thuốc lá của ông Bái có in hình quả tên lửa hướng về phía Nam. Tên Hiển nổi đóa, văng tục gây gổ, bảo bờ Bắc khiêu khích. Ông Bái nói "Anh làm chi rứa? Quả đạn trên hộp thuốc thì bắn giết được ai?". Hai bên to tiếng, tên Hiển kêu lính rút lui, mấy hôm sau thấy đuối lý, mới chịu ký sổ. Câu chuyện thú vị này đã trở thành giai thoại, được một nhà văn quân đội viết thành chuyện trong một cuốn sách về ông Bái với tựa đề "Hộp thuốc hiếu chiến". Đầu năm 1962, ông Bái nghe thông tin trinh sát rằng đồn trưởng Hiển đang cho lính xây dựng công sự lô cốt đồn liên hợp, để đảm bảo bí mật, xung quanh hắn cho bịt kín bạt, căng lưới B40 rào kỹ mọi ngóc ngách, chỉ chừa một lối nhỏ đi vào, cắm biển "không phận sự miễn vào" trước cửa và cho lính súng ống gác ngày đêm. Ông Bái "đơn thương độc mã" chèo thuyền sang, đạp ngã tấm bảng cấm và đi thẳng một mạch vào đồn. Đồn trưởng Hiển đã vào trong làng kiếm đồ nhậu. Mấy thằng lính ngụy như đã biết cái uy của ông, không dám hó hé gì. Ông Bái đi quanh đồn quan sát, dẫm chân thình thịch xuống nền thăm dò. Đúng là tụi hắn làm hầm ngầm thiệt, công sự bê tông kiên cố, cửa sổ, cửa chính đều thiết kế kiểu bệ súng, lỗ châu mai... Quan sát tỉ mỉ mọi thứ rồi ông về, vẽ lại nguyên xi sơ đồ đã thấy và nộp lên cấp trên. Đồng thời ông nghĩ cách ăn miếng trả miếng thật độc đáo. Cho anh em mang toàn bộ củi dự trữ ra sân, xếp như công sự, khúc to, dài thì sắp chéo, nhìn xa như trung liên đại liên hướng sang bờ Nam. Dù hai đồn đóng hai bờ đối diện nhau nhưng đồn Cửa Tùng của ông Bái ở trên đồi cao, vị trí rất đắc địa, nhìn qua thấy rõ mồn một bên kia, nhưng ngược lại, đồn tên Hiển lại ở dưới trảng cát thấp. Ngước lên, thấy bờ Bắc "dàn trận", tụi lính bờ Nam khiếp vía. Tên Hiển qua, lồng lộn gây sự, khăng khăng đòi bờ Bắc "dẹp súng, không được khiêu khích". Ông Bái dẫn hắn ra sân chỉ "anh em tui phơi củi, súng mô mà súng". Nhìn đống "súng củi", tên Hiển thua lý, cay cú rút về... Những câu chuyện kiểu như vậy thật nhiều. Nhẩm tính 4 năm, là hơn 200 tuần và gần 1.500 ngày đối mặt, có lẽ cũng có gần từng đó câu chuyện giữa đôi bờ Nam- Bắc vùng giới tuyến mà những người như ông Bái đã từng trải qua, từng đối mặt; để hôm nay ngồi kể lại cho cháu con nghe, hào hùng mà cũng thật sảng khoái; khó khăn, căng thẳng, hiểm nguy là vậy mà sao nghe thật nhẹ tênh, tựa như một cuộc dạo chơi phóng khoáng. Trần Thanh Hải